Old Testament

Thánh Vịnh
(Tv 101-150)


101, 102, 103, 104, 105, 106, 107, 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 122, 123, 124, 125, 126, 127, 128, 129, 130, 131, 132, 133, 134, 135, 136, 137, 138, 139, 140, 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147, 148, 149, 150

 

Thánh Vịnh 101 (100)

Gương cho các vua chúa

1 Của Ðavít. Thánh vịnh.

Tôi muốn ca hát ân nghĩa, đức công minh,

tôi xin đàn ca cho Người, lạy Yavê.

2 Ðường trọn lành, tôi muốn thông hay,

bao giờ nữa Người mới đến với tôi?

Một lòng đơn thành, tôi muốn bước đi,

ở giữa nhà tôi,

3 tôi quyết không để trước mặt tôi điều gì vô lại!

Hành vi của lũ lăng loàn, tôi gớm ghét,

nó sẽ chẳng dính bén vào tôi.

4 Lòng tà vay sẽ lánh xa tôi,

ác nhân, tôi sẽ không biết đến.

5 Kẻ chùng lén gièm pha đồng loại,

tôi sẽ bắt phải ngậm câm.

Mắt kiêu căng và lòng tự đại,

tôi quyết không dung.

6 Mắt tôi nhắm đến những người hiền lương trong xứ,

cho họ được ở với tôi!

Kẻ bước đi theo nẻo trọn lành,

chính kẻ ấy sẽ phụng sự tôi.

7 Sẽ không lưu lại nhà tôi

kẻ làm điều bịp bợm.

Kẻ ba hoa láo khoét,

sẽ không bền lâu trước mắt tôi.

8 Sáng sáng tôi sẽ bịt miệng

tất cả phường ác nhân trong xứ,

để tiễu trừ khỏi thành Yavê tất cả phường tác quái.

 

Thánh Vịnh 102 (101)

Lời cầu trong cơn hoạn nạn

1 Lời cầu của kẻ gặp khốn khó. Trong cơn cùng khốn,

nó dâng lời than vãn trước Yavê.

2 Yavê, xin nghe lời tôi khẩn nguyện,

và tiếng tôi kêu cứu được thấu đến Người!

3 Xin chớ lánh mặt khỏi tôi, vào ngày tôi lâm bĩ.

Xin hãy ghé tai lại với tôi,

ngày tôi kêu khấn, xin mau đáp lại lời tôi!

4 Vì ngày đời tôi tan ra khói

xương cốt tôi bừng cháy như hỏa lò.

5 Ví dường cỏ áy, lòng tôi đòi đoạn héo hon,

làm tôi quên nhãng cả chút bánh ăn.

6 Bởi tiếng tôi rên siết,

xác tôi chỉ còn da bọc xương.

7 Tôi nên tựa hồ con vọ trong sa mạc,

tôi ra như con cú trong hoang tàn,

8 tôi những thao thức và rên rỉ,

như chim thất ngẫu trên mái nhà.

9 Suốt ngày địch thù thóa mạ tôi,

những kẻ khen tôi xưa rày nguyền rủa tôi.

10 Tro là bánh tôi ăn,

của uống tôi, hòa với lệ.

11 Trước cơn lôi đình thịnh nộ của Người,

vì Người nhắc tôi lên rồi quăng vất tôi đi.

12 Ngày đời tôi như bóng ngả chiều tà,

tôi héo khô như cỏ ngoài đồng.

13 Nhưng Người, lạy Yavê, Người sẽ ngự trị mãi mãi,

Danh Người còn đến đời đời!

14 Chạnh thương Sion, Người sẽ chỗi dậy,

vì thời đoái thương nó, hạn đã đến rồi.

15 Nơi đó, các tôi tớ Người quí mến từng viên đá,

và bùi ngùi trên tro tàn của nó.

16 Bấy giờ các dân sẽ kính sợ Danh Ðức Yavê,

và vua chúa trần gian kinh hãi

trước vinh quang của Người,

17 khi Yavê xây lại Sion,

và Người tỏ hiện trong vinh quang Người,

18 kẻ bị bóc lột khẩn cầu, Người sẽ ghé lại,

và không khinh màng lời nó khẩn cầu.

19 Ước gì điều này được ghi lại cho hậu thế,

va dân sinh sau sẽ ngợi khen Yavê!

20 Từ chót vót thánh điện của Người, Người đã cúi xuống,

từ trời cao, Yavê ngó xuống trần gian,

21 để nghe tiếng kêu ai oán của kẻ tù đày,

để thả ra những kẻ đã mang án chết,

22 để Danh Yavê được truyền tụng tại Sion,

và lời ngợi ken Người ở Yêrusalem,

23 khi các dân cùng nhau tề tựu,

cùng các vương quốc, để phụng thờ Yavê!

24 Giữa bước đường đời, Người tiêu hủy [sức tôi]

ngày đời tôi, Người rút ngắn lại,

25 tôi nói: lạy Thiên Chúa tôi,

xin chớ cất mạng tôi mới thọ nửa đời!

Tuổi của Người hết đời này đến muôn đời khác.

26 Ban sơ, Người đã chôn móng địa cầu,

và trời là công trình tay Người làm ra.

27 Chúng sẽ hư, nhưng Người còn mãi,

hết thảy như manh áo, chúng sẽ tả tơi,

như xiêm y, Người thay đổi chúng và chúng sẽ đổi thay,

28 còn Người, Người vẫn thế,

và tuổi của Người sẽ không hề có hạn!

29 Con cái các tôi tớ Người sẽ được an cư,

dòng giống chúng sẽ bần mãi trước nhan Người.

 

Thánh Vịnh 103 (102)

Thiên Chúa là tình yêu

1 Của Ðavít.

Hồn tôi hỡi, hãy chúc tụng Yavê,

và tất cả tâm khảm tôi, Danh thánh Người!

2 Hồn tôi hỡi, hãy chúc tụng Yavê,

và đừng quên các ơn lành Người ban!

3 Ðấng tha thứ mọi tội lỗi người,

Ðấng chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền,

4 Ðấng cứu sinh mạng ngươi khỏi hố,

Ðấng đội đầu ngươi, triều thiên ân nghĩa xót thương,

5 Ðấng cho [đời ngươi] no đầy hạnh phúc,

khiến tuổi xuân ngươi có sức phụng hoàng hồi xuân.

6 Yavê, Ðấng tác thành công chính,

và giải án cho hết thảy những người bị ức hiếp.

7 Người đã tỏ cho Môsê biết đường lối của Người

và cho con cái Israel các luân công của Người.

8 Yavê trắc ẩn và từ bi,

khoan dung và giàu ân nghĩa.

9 Người không hạch tội luôn luôn,

Người không cưu hờn mãi mãi,

10 Người không xử với ta xứng tội của ta,

Người không trả cho ta xứng lỗi ta làm.

11 Ví như trời cao hơn đất thế nào,

thì ơn Người cũng cao vời trên những ai kính sợ Người.

12 Ðông Ðoài cách nhau bao nhiêu,

thì người cũng cất lỗi phạm của ta xa ta chừng ấy.

13 Như cha xót thương con mình thế nào,

thì Yavê cũng xót thương những ai kính sợ Người như vậy.

14 Người biết hình hài ta sao,

Người nhớ lắm: Ta là bụi đất.

15 Người phàm, những ngày của nó khá ví như cỏ,

như hoa cỏ ngoài đồng, nó đơm hoa,

16 trên nó, làn khí chỉ thoáng qua, và nó đã không còn,

ngay chỗ nó choán cũng không còn nhận ra được nó.

17 Ơn của Yavê từ đời đời cho đến đời đời

trên những ai kính sợ Người,

và đức công chính của Người, hết đời con đến đời cháu,

18 trên những ai nắm giữ Giao ước của Người

và nhớ làm theo các mệnh lệnh của Người.

19 Ngai của Người, Yavê đặt ở trời cao,

vương quyền của Người quản cai vạn vật.

20 Hãy chúc tụng Yavê, hỡi các thần sứ của Người,

những anh hùng dũng mạnh làm theo lời Người,

sẵn vâng tiếng Người phán ra.

21 Hãy chúc tụng Yavê, hỡi các cơ binh của Người,

tôi trung tùng phục ý Người.

22 Hãy chúc tụng Yavê hết thảy, hỡi các công trình của Người,

khắp chốn trong nước của Người!

Hồn tôi hỡi, hãy chúc tụng Yavê!

 

Thánh Vịnh 104 (103)

Huy hoàng của tạo vật

1 Hồn tôi hỡi, hãy chúc tụng Yavê!

Yavê Thiên Chúa tôi, Người thật lớn lao vô ngần,

Người mặc oai phong lẫm liệt,

2 Người choàng long bào sự sáng,

Người căng trời làm như màn trướng,

3 trên nước, Người xây cất lầu gác của Người,

Người gióng áng mây làm xa giá,

Người thả bước đi trên cánh gió,

4 Người dùng gió bão làm sứ giả,

bộ hạ của Người là lửa hỏa hào!

5 Người chôn cột kê nền thổ địa,

nó sẽ không lay đời đời kiếp kiếp!

6 Người lấy vực thẳm làm áo phủ địa cầu,

nước đã dừng lại trên đỉnh núi non.

7 Người quát một tiếng, chúng chạy trốn,

trước tiếng sấm của Người, chúng đào tẩu,

8 Chúng leo núi, chúng nhào sâu,

tụ vào chỗ Người đã định.

9 Người vạch ranh giới cấm chúng vượt qua,

không cho quay lại phủ trùm mặt đất.

10 Mạch nước, Người cho phun ra trong lòng khe thác,

giữa núi non, chúng dạo vòng,

11 cho dã thú có thể uống no,

và lừa rừng có phương giải khát,

12 trên bờ suối, chim trời làm tổ,

giữa lá rậm chúng lên tiếng líu lo.

13 Tự kho lầu gác, Người đãi nước núi non,

nhờ hoa quả sự nghiệp của Người, đất được thỏa thuê,

14 Người cho cỏ mọc lên nuôi thú vật,

và rau cho nhân loại dùng,

để chúng sản xuất bánh ăn do tự lòng đất,

15 để rượu gây hoan lạc nơi lòng phàm nhân,

để cho mặt mày bóng loáng dầu trơn,

và miếng bánh cho người phàm chắc dạ!

16 Chúng được nuôi rất hậu, cây cối Yavê,

tùng bá Liban, Người đã vun trồng,

17 đó là chỗ se sẻ làm tổ,

còn ổ hạc là ở [ngọn cây]

18 Núi cao chót vót dành đàn sơn dương,

đá tai mèo, ổ trú của giống cù lì.

19 Người dựng vầng nguyệt đánh dấu tinh kỳ,

mặt trời cũng biết lúc lặn.

20 Người dẫn lại tối tăm, thế là đêm đến,

lúc thú rừng tất cả bò ra:

21 Sư tử gầm rống tìm mồi,

đòi miếng ăn nơi Thiên Chúa.

22 Mặt trời vừa mọc thì chúng rút lui

và chui rúc hang sâu nằm chờ.

23 Nhân loại đi ra làm lụng

mãi miết cho đến chiều tà.

24 Ôi! lạy Yavê, sự nghiệp của Người nhiều biết là bao!

thay thảy Người làm theo sự khôn ngoan,

trần gian dẫy đầy các vật Người đã tạo ra!

25 Này đây biển cả rộng lớn bao la:

Trong đó nhung nhúc không biết cơ man

vật li ti, vật khổng lồ.

26 Trong đó có thuyền bè đi lại,

hải long Người đã nắn ra làm trò tiêu khiển.

27 Muôn loài hết thảy ngửa trông lên Người

mong Người đến bữa cho ăn.

28 Người ban ra thì chúng lượm,

Người mở tay, thì chúng đầy no sự lành.

29 Người vừa lánh mặt, chúng đã thất kinh,

Người rút lại hơi khí của chúng, chúng liền tắt thở,

chúng sẽ trở về với đất bụi!

30 Người sai khí của Người, chúng được tạo thành

và Người đổi mới mặt đất.

31 Chúc vinh quang Yavê miên man vạn đại!

Ước gì Yavê được mừng vui nơi sự nghiệp của Người!

32 Ðấng nhìn đến đất, và đất run lên,

Người dựng núi non và chúng nghi ngút khói!

33 Tôi nguyện hát mừng Yavê trong kiếp đời tôi,

tôi muốn đàn ca Thiên Chúa tôi bao lâu còn sống.

34 Ước gì hoài bão của tôi được đẹp lòng Người,

phần tôi, tôi muốn mừng vui nơi Yavê!

35 Ước gì phường tội lỗi tiệt đi khỏi cõi đất,

và lũ ác nhân không còn có nữa!

Hồn tôi hỡi, hãy chúc tụng Yavê!

 

Thánh Vịnh 105 (104)

Lịch sử diệu kỳ của Israel

Alleluia!

1 Hãy cám tạ Yavê, hãy kêu Danh Người,

hãy loan báo giữa muôn dân các huân công của Người,

2 hãy hát mừng Người, hãy đàn ca cho Người,

hãy ngâm vịnh các kỳ công Người làm hết thảy,

3 hãy hiên ngang nơi Danh thánh Người,

và hãy vui mừng, lòng những kẻ tìm kiếm Yavê.

4 Hãy dõi tìm Yavê và uy quyền Người,

hãy luôn luôn tìm kiếm nhan Người,

5 hãy ghi nhớ những kỳ công Người làm,

và các điềm thiêng của Người

cùng phán quyết miệng Người tuyên ra.

6 Hỡi dòng giống Abraham, tôi tớ của Người,

hỡi con cái Yacob [kẻ Người đã chọn]

7 Người chính là Yavê, Thiên Chúa chúng ta,

các phán quyết của Người trên toàn cõi đất.

8 Người nhớ luôn mãi Giao ước của Người,

lời Người đã truyền cho muôn thế hệ,

9 Giao ước Người đã kết với Abraham,

và lời Người thề với Isaac.

10 Người đã làm luật điều cho Yacob,

làm Giao ước vạn đại cho Israel,

11 rằng: "Ta sẽ ban cho ngươi đất Canaan,

làm phần cơ nghiệp cho các ngươi".

12 Dẫu họ là nhóm người số ít oi,

chẳng là bao, mà lại là khách lạ trong miền,

13 phải lang thang từ dân này qua dân nọ,

từ nước này đến dân tộc khác,

14 Người đã chẳng để ai hiếp được họ,

vì họ, Người đã sửa trị những hàng vua chúa:

15 "Chớ đụng đến những vì cao tôn của Ta,

những tiên tri của Ta, bay chớ nhiễu hại!"

16 Người gọi cơ cận đến trong xứ,

gậy, bánh, Người đập gãy tất cả,

17 Người sai đi trước họ một người:

Yuse bị bán làm thân nô lệ.

18 Chân ông, người ta gia hình xiềng xích,

cổ ông, cùm sắt tra vào,

19 cho đến thời, lời ông ứng nghiệm,

sấm của Yavê chứng ông vô tội.

20 Nhà vua sai người cởi trói,

người cai trăm họ cho lịnh mở tù,

21 đặt ông làm chúa đền vua,

làm tể tướng cai tất cả sản nghiệp,

22 để ông tùy nghi [dạy bảo] khanh tướng,

và dạy khôn cho hàng lão trượng.

23 Bấy giờ Israel vào đất Aicập,

và Yacob đến ngụ nhờ đất Kham.

24 Người cho dân Người, sinh sôi rất mực,

và chúng nên mạnh hơn cả địch thù.

25 Người đổi lòng họ, cho họ hờn ghét dân Người,

cho họ tìm mánh lới hại các tôi tớ của Người.

26 Người sai Môsê tôi tớ của Người,

Aharôn kẻ Người đã chọn;

27 Người cho các ông, tung ra dấu lạ Người truyền,

và các điềm thiêng trên đất dân Kham.

28 Người gởi tối tăm, làm cho tối sầm,

nhưng họ không màng để ý lời Người.

29 Nước nôi xứ họ, Người biến thành máu,

có cá bao nhiêu bị Người giết sạch.

30 Khắp vùng ếch nhái sinh ra nhung nhúc,

vào cả những thâm cung vua chúa,

31 Người phán và ruồi mồng kéo đến,

muỗi khắp cả bờ cõi của họ.

32 Thay vì mưa thuận, Người cho mưa đá,

ngọn lửa thiên lôi xuống trên xứ họ,

33 Người tàn phá cả nho lẫn vả,

Người bẻ gãy cây cối khắp cả bờ cõi.

34 Người phán và châu chấu kéo đến,

với bọ rầy không biết cơ man,

35 rau cỏ trong vùng chúng ăn hến nhẵn,

chúng ăn trụi hoa quả đất đai.

36 Người đánh gục các trai đầu lòng xứ họ,

tinh hoa của tất cả giống nòi của họ.

37 Người đã đem chúng ra cùng với bạc vàng,

trong các bộ tộc không một người nào thất thểu.

38 Dân Aicập mừng rỡ vì chúng đi ra,

bởi chưng họ kinh hãi xâm nhập cả mình!

39 Người giăng mây làm màn che,

và lửa để dọ sáng ban đêm.

40 [Chúng xin] thì Người dẫn đến cun cút,

Người lấy bánh bởi trời cho chúng ăn no,

41 Người mở tảng đá và nước trào ra,

trong nơi khô cháy, nước chảy như sông.

42 Ấy vì Người nhớ kỹ lời thánh của Người

cho Abraham tôi tớ của Người.

43 Người đã đem dân Người ra trong hoan lạc,

những kẻ Người đã chọn, giữa tiếng reo vui.

44 Người đã ban cho chúng xứ sở các dân,

chúng đã thừa hưởng công khó của các nước,

45 ngõ hầu chúng giữ luật điều Người ra,

và luật lệ của Người, chúng sẽ tuân theo.

 

Thánh Vịnh 106 (105)

Toàn dân xưng thú

1 Alleluia!

Hãy cảm tạ Yavê vì Người tốt lành,

vì ơn Người miên man vạn đại!

2 Huân công của Yavê, ai sẽ nói lên?

ai cho nghe lại tất cả lời ngợi khen Người?

3 Phúc cho người giữ đức công minh,

cho kẻ thi hành nhân nghĩa mọi thời!

4 Lạy Yavê, xin nhớ đến chúng tôi

bởi lòng thương đoái dân Người

xin thăm viếng chúng tôi bằng ơn tế độ của Người,

5 cho chúng tôi được thấy hạnh phúc

của những kẻ Người chọn,

được vui mừng vì phúc lạc dân Người,

được vinh vang với cơ nghiệp của Người!

6 Cùng với cha ông chúng tôi,

chúng tôi đã phạm tội,

chúng tôi đã lầm lạc, đã ở bất lương!

7 Cha ông chúng tôi ở bên Aicập,

đã chẳng hiểu gì về các kỳ công Người làm,

họ đã chẳng nhớ đến ơn huệ bao la của Người,

họ đã dấy loạn với Ðấng Tối Cao bên bờ Biển Sậy.

8 Nhưng Người đã cứu họ vì Danh Người,

để tỏ cho biết dũng lực của Người.

9 Người quát Biển Sậy và nó đã khô,

Người cho họ đi trên sóng nước như qua sa mạc.

10 Người đã cứu họ khỏi tay kẻ ghét,

Người đã chuộc họ khỏi tay kẻ thù.

11 Nước đã vùi những kẻ nghịch với họ,

một mống cũng chẳng còn.

12 Bấy giờ họ đã tin vào lời Người nói,

và họ ca hát lời ngợi khen Người.

13 Kíp đó họ đã quên các việc Người làm,

họ không chờ đợi ý định của Người.

14 Trong sa mạc họ buông theo đam mê của họ,

và thử thách Thiên Chúa trong chốn hoang vu.

15 Họ xin gì Người đã cho toại nguyện,

Người đã gửi đến [những gì ớn] đến cổ họng.

16 Trong trại, họ đã phân bì Môsê,

và Aharôn, Ðấng thánh của Yavê.

17 Ðất đã mở ra và nuốt trửng Ðatan,

và đã vùi sống bè lũ Abiram,

18 lửa đã bốc lên trị bè lũ chúng,

hỗn hào thiêu rụi cả phường bất nhân.

19 Tại Hôreb, họ đã dựng một con bê,

họ đã phục lạy một pho tượng đúc,

20 vinh quang của họ, họ đã đánh đổi

với hình thù con bò ngoạm cỏ.

21 Họ quên mất Thiên Chúa, Ðấng tế độ cho họ,

Ðấng đã làm những điều lớn lao bên Aicập.

22 Những kỳ công ở xứ dân Kham,

những điều kinh đảm nơi Biển Sậy.

23 Và Người tuyên bố sẽ tiêu diệt chúng,

nếu như Môsê, kẻ Người chọn,

đã không đứng trước nhan Người như nơi tiền tuyến,

ngừa cơn thịnh nộ để đừng tru diệt.

24 Họ đã khinh màng đất đai cực lạc,

họ đã không tin vào lời của Người,

25 ngồi trong lều trại, họ kêu than,

họ không nghe tiếng Yavê.

26 Trên họ, Người đã giơ tay (thề),

cho họ gục ngã trong sa mạc,

27 cho dòng giống họ tản mác giữa các dân,

cho họ rải rác khắp các xứ.

28 Họ đã chạy theo Beal Pêor,

và dự tiệc tế loài ma không hồn,

29 họ chọc tức Người bằng việc dị đoan,

và họa tai đã ập đến trên họ.

30 Pinơkhas đã chỗi dậy can thiệp,

và họa tai liền chấm dứt.

31 Và việc ấy được kể như công đức của ông,

đời này qua đời khác, cho đến vạn đại.

32 Nhân vụ nước Mơriba, họ đã làm Người phẫn nộ,

và vì cớ họ, Môsê đã mắc lụy vào thân,

33 bởi họ đã làm trí lòng ông bực bội

và môi ông đã lỡ lời nói càn.

34 Họ đã chẳng tru diệt các dân,

như Yavê đã truyền cho họ,

35 họ đã trà trộn với các dân ngoại,

và học đòi thói ăn nếp ở của chúng,

36 họ đã thờ tà thần của chúng,

đó là cạm bẫy bày ra cho họ.

37 Họ đã tế lễ con trai, và con gái họ cho ma quỉ,

38 họ đã đổ máu vô tội - máu con trai con gái họ,

họ đã đem tế cho tà thần Canaan -

và đất đã trở nên nhơ uế vì máu đổ ra.

39 Họ đã ra đồ uế tạp vì việc vàn của họ,

họ đã ngoại tình vì việc quấy họ làm.

40 Và Yavê đã chấn nộ trên dân của Người,

cơ nghiệp của Người, Người đã lấy làm nhờm tởm.

41 Người đã phó nộp họ cho dân ngoại,

những kẻ thù ghét đã thống trị trên họ,

42 cừu địch đã áp bức họ và họ phải sát rạt dưới bàn tay chúng.

43 Bao phen Người đã đáp cứu,

nhưng họ cứ dấy loạn nơi ý định của mình,

mà gan lì trong tội lỗi!

44 Nhưng khi họ lâm bĩ, Ngưòi lại nhìn đến,'

thoạt nghe thấy lời họ kêu than.

45 Thương họ, Người nhớ lại giao ước của Người,

Người lại chạnh thương vì những ân huệ bao la của Người,

46 Người cho họ gặp được thương xót,

nơi những người bắt họ đi đày.

47 Xin cứu chúng tôi, lạy Yavê, Thiên Chúa chúng tôi,

xin thâu họp chúng tôi lại từ khắp muôn dân,

cho chúng tôi cám tạ Danh Người,

cho chúng tôi vinh hạnh được ngợi khen Người!

48 Chúc tụng Yavê, Thiên Chúa của Israel,

từ đời đời cho đến vạn đại!

và toàn dân sẽ nói: Amen.

 

Thánh Vịnh 107 (106)

Thiên Chúa giải thoát con người khỏi mọi hiểm nguy

Alleluia!

1 Hãy cám tạ Yavê, vì Người tốt lành,

vì ơn Người miên man vạn đại!

2 Họ hãy nói thế, những kẻ Yavê đã chuộc,

Người đã chuộc khỏi tay người đàn áp,

3 và Người đã thâu họp từ các xứ,

từ Ðông chí Tây, từ Bắc chí Nam,

4 Họ phiêu lưu trong sa mạc, trong chốn hoang vu,

họ không mò ra đường đến một thành ở được,

5 vì đói, và nhất là vì khát, họ thấy mạng họ đã đuối.

6 Lâm bĩ, họ đã kêu lên với Yavê,

và Người đã giựt họ thoát khỏi ngặt nghèo,

7 Người đã dẫn đưa họ trên đường thẳng tắp

cho họ đi đến một thành ở được.

8 Họ hãy cám tạ Yavê vì ơn Người,

vì những kỳ công Người đã làm cho con cái loài người!

9 Vì kẻ họng khô ran, Người đã cho uống thỏa thuê,

và kẻ đói meo, Người đã cho sung mãn sự lành!

10 Những kẻ ở trong tối tăm u ám,

bị tù đày trong khốn khổ gông cùm,

11 vì chống cưỡng lại sấm ngôn Thiên Chúa

và khinh màng ý định của Ðấng Tối Cao,

12 Người đã lấy gian lao bắt lòng họ khuất phục,

họ đã ngã gục, mà chẳng có người hộ vực!

13 Lâm bĩ, họ đã kêu lên với Yavê,

và Người đã cứu họ thoát khỏi ngặt nghèo.

14 Người kéo họ khỏi chốn tối tăm u ám,

xiềng xích họ, Người đã bật tung.

15 Họ hãy cám tạ Yavê vì ơn Người,

vì những kỳ công Người đã làm cho con cái loài người!

16 Vì Người đã đập tan những cánh cửa đồng,

và bẻ gãy thành mảnh những then sắt.

17 Những kẻ điên dại, sa đàng tội quá,

vì tội vạ mà lâm phải khốn khổ,

18 họng họ chán mọi thức ăn,

và họ đã lê sát bên cửa tử thần.

19 Lâm bĩ, họ đã kêu lên với Yavê,

và Người đã cứu họ thoát khỏi ngặt nghèo.

20 Người đã sai lời Người đến chữa họ,

và giựt [sinh mạng họ khỏi mồ chôn].

21 Họ hãy cám tạ Yavê vì ơn Người,

vì những kỳ công Người làm cho con cái loài người!

22 Họ hãy dâng lên lễ tế tạ ơn,

và hãy reo lên thuật lại công việc của Người.

23 Những kẻ xuống thuyền đi biển,

chuyên nghề buôn bán giữa nước mênh mông,

24 họ đã được thấy các việc của Yavê,

và những kỳ công Người làm nơi chốn biển khơi.

25 Người phán và cho bùng lên gió bão,

làm cho ba đào rầm rầm dấy lên;

26 Họ nhô lên trời, họ nhào vực thẳm,

mạng họ rữa tan ra trong điêu đứng,

27 họ quay cuồng, họ lảo đảo như chàng say rượu

và tài khôn của họ tan đâu hết thảy.

28 Lâm bĩ, họ đã kêu lên với Yavê,

và Người đã kéo họ thoát khỏi ngặt nghèo!

29 Người làm cho bão táp dừng yên phăng phắc,

sóng biển lại yên tĩnh như tờ.

30 Họ vui mừng vì sóng gió đã dịu,

và Người dẫn họ đến bến họ mong.

31 Họ hãy cám tạ Yavê vì ơn Người,

vì những kỳ công Người làm cho con cái loài Người!

32 Họ hãy tôn dương Người trong đại hội toàn dân,

và hãy ngợi khen Người giữa nơi kỳ lão nhóm họp!

33 Sông ngòi, Người đổi thành sa mạc,

và nguồn suối mát thành truông chết khát,

34 đất hoa màu hóa thành ruộng muối,

vì lòng độc ác của dân cư trong vùng.

35 Sa mạc, Người lại đổi thành vũng nước,

và đất khô cháy thành nguồn suối mát,

36 Người đặt ở đó những người đói khát,

và họ xây dựng nên thành ở được,

37 họ gieo lúa ruộng, họ trồng vườn nho,

mà sản xuất hoa màu lợi tức,

38 Người chúc lành, và họ sinh sôi đông đảo,

súc vật của họ, Người không để hiếm hoi.

39 Rồi họ ra hiếm hoi, lụn bại,

vì tù đày, tai ương, họa khốn.

40 Ðấng đổ khinh khí trên hàng quyền quí,

và để chúng phiêu lạc trong hoang vu mất hướng.

41 Chính Người nhắc kẻ khó nghèo khỏi cảnh lầm than,

và các gia đình tăng số như chiên cừu.

42 Thấy thế, những kẻ ngay lành sẽ được mừng vui,

và gian ngoa hết thảy phải câm miệng.

43 Ai khôn thì hãy canh chừng bao nhiêu cơ sự,

và lo hiểu lấy các ơn huệ của Yavê!

 

Thánh Vịnh 108 (107)

Lời ca ban mai

1 Ca ngợi. Thánh vịnh. Của Ðavít.

2 Lòng tôi sẵn sàng, lạy Thiên Chúa,

tôi sẽ đờn ca xướng hát, hết hồn tôi!

3 Dậy đi! Tiếng sắt, tiếng cầm,

tôi sẽ lay tỉnh bình minh.

4 Tôi sẽ tạ ơn Người giữa muôn dân, lạy Yavê,

giữa các nước, tôi sẽ đàn ca cho Người,

5 vì ơn của Người lớn quá các tầng trời, lạy Thiên Chúa,

và vinh quang của Người trên toàn cõi đất!

7 Ðể cho những kẻ thiết nghĩa của Người thoát nạn,

xin Người ra tay tế độ và đáp lại lời chúng tôi!

8 Thiên Chúa đã phán trong thánh điện của Người:

"Ta khấp khởi, Ta sắp chia phần Sikhem,

và đo cánh đồng Sukhốt.

9 Về Ta Galaađ, về Ta Manassê,

Êphraim mũ chiến đầu Ta,

Yuđa, phủ việt của Ta,

10 Moab là chiếc thau rửa, trên Eđom, Ta lia chiếc dép của Ta,

trên đất Philitin, Ta hò xung phong".

11 Ai sẽ đưa tôi vào thành kiên cố,

ai sẽ dẫn tôi đến tận Eđom,

12 trừ phi là Người, lạy Thiên Chúa, Ðấng đã bỏ chúng tôi,

và không còn xuất trận với binh đội chúng tôi,

lạy Thiên Chúa!

13 Xin khấng hộ phù chúng tôi cho khỏi kẻ thù,

vì hão huyền thay, việc người phàm tiếp viện!

14 Có Thiên Chúa, ta sẽ ra tay oanh liệt,

và chính Người sẽ chà đạp địch thù chúng ta.

 

Thánh Vịnh 109 (108)

Thánh vịnh trù ẻo

1 Phần nhạc trưởng. Của Ðavít. Thánh vịnh.

Thiên Chúa của lời tôi ca ngợi,

xin đừng lặng thinh,

2 vì miệng kẻ dữ, miệng gian ngoa mở ra hại tôi,

chúng nói với tôi, lưỡi đầy dối trá,

3 với lời hằn học, chúng bao vây tôi,

chúng tuyên chiến với tôi vô cớ.

4 Ðáp lại lòng tôi thương mến, chúng đi vu cáo,

còn tôi, tôi chỉ nguyện cầu,

5 chúng thời lấy oán đền ơn,

lấy thù ghét đáp lại lòng tôi thương mến.

6 Xin cho ác nhân hạch tội nó,

bên phải nó, cho một người cáo tội đứng kèm!

7 Khi bị xử, ước gì nó mang án đi ra,

và lời nó khẩn cầu nên chứng buộc tội!

8 Ngày đời nó hãy bị rút ngắn lại,

chức vụ của nó, kẻ khác hãy cất lấy!

9 Con cái nó hãy hóa mồ côi,

vợ nó hãy thành góa bụa!

10 Con cái nó hãy đi lang thang khất thực,

và [bị trục xuất] khỏi nhà chúng hoang tàn!

11 Chủ nợ hãy vét sạch gia tư vốn liếng,

và người lạ hôi lấy công khó nó làm ra!

12 Ước gì với nó không còn ai giữ nghĩa,

lũ con côi của nó chớ được một ai thương tình!

13 Ước gì hậu duệ nhà nó hãy bị tru di,

sau một đời, tên tuổi chúng bị tẩy xóa!

14 Tội cha ông nó, trước Yavê, hãy bị nhắc đến,

lỗi của mẹ nó không hề được xóa bỏ!

15 Các tội lỗi ấy cứ còn mãi trước mặt Yavê,

Người hãy diệt khỏi đất danh tính chúng đi!

16 Bởi nó đã chẳng nhớ xử theo nhân nghĩa,

nó đã bắt bớ kẻ lòng đã bại hoại.

17 Nó đã thích nguyền rủa: Nguyền rủa hãy quật lại trên nó.

Nó đã chẳng ưa chúc lành: Chúc lành hãy rời xa nó!

18 Nó đã mặc lấy nguyền rủa như manh áo,

thì nguyền rủa hãy thấm vào

như nước đến tận can tràng,

như dầu đến cả xương tủy!

19 Ðó là bộ áo, nó hãy quấn lấy,

đó là đai lưng, nó hãy thắt luôn vào mình!

20 Thế đó, quả báo do bởi Yavê cho những ai vu cáo tôi,

những kẻ nói lời độc địa hại đến mạng tôi!

21 Còn Người, lạy Yavê, Chúa tôi,

xin hãy can thiệp hộ tôi vì Danh Người,

vì ơn Người tốt lành, xin hãy cứu tôi!

22 Vì tôi nghèo khó bần cùng,

và tim tôi bầm nát nơi đáy lòng.

23 Như bóng ngả chiều tà, tôi gần tận số,

tôi bị cuốn đi như con châu chấu.

24 Gối tôi đã chồn, vì những nhịn chay,

xác tôi không dầu, không mỡ nên đã gầy còm.

25 Tôi nên trò cho chúng thóa mạ,

thấy tôi, thì chúng lắc đầu.

26 Xin hãy phù hộ tôi, lạy Yavê Thiên Chúa tôi,

xin hãy cứu tôi, chiếu theo ơn Người,

27 để cho chúng biết là chính tay Người,

chính Người, lạy Yavê, Người đã làm thế!

28 Chúng nguyền rủa, nhưng Người sẽ chúc lành,

những kẻ dấy lên hại tôi phải xấu hổ,

còn tôi tớ Người sẽ được mừng vui!

29 Ước gì sỉ nhục hãy trùm lên chúng, những kẻ vu cáo tôi,

chúng hãy quấn lấy xấu hổ như chiếc áo choàng!

30 Tôi sẽ mở miệng hết lời cám tạ Yavê,

giữa đám đông, tôi sẽ ngợi khen Người,

31 vì có Người đứng bên phải kẻ nghèo,

để cứu mạng nó [khỏi những người kết án].

 

Thánh Vịnh 110 (109)

Ðức Mêsia tư tế

1 Của Ðavít. Thánh vịnh.

Sấm của Yavê cho Chúa tôi:

"hãy ngự bên hữu Ta,

chờ Ta đặt quân thù làm bệ chân ngươi".

2 Tự Sion, Yavê sẽ phóng xa phủ việt uy quyền Ngài,

Ngài hãy thống trị giữa vòng địch quân!

3 Ngày ngày sinh ra chủ quyền đã thuộc về ngài

chiêu thanh tự bào thai, ngay rạng đông niên thiếu của ngài.

4 Yavê đã thề và Người sẽ chẳng hề hối tiếc:

"Ngươi là tư tế đời đời theo kiểu Melkisêđek".

5 Lạy Chúa tôi, bên hữu Người,

ngài đã đập tan vua chúa trong ngày chấn nộ,

6 ngài hạch tội muôn dân, thây ma chất đống,

ngài đập tan đầu lâu khắp địa hoàn xa rộng!

7 Dọc đường, ngài uống thác trong,

nên ngài sẽ ung dung ngẩng đầu.

 

Thánh Vịnh 111 (110)

Ca tụng các công trình của Thiên Chúa

1 Alleluia!

Tôi xin cám tạ Yavê hết lòng, - - Aleph.

trong vòng kẻ lành sum vầy và trong đám hội. - - Bet.

2 Lớn lao thay công việc Yavê! - - Gimel.

đáng được gẫm suy, hết thảy những ai mộ mến. - - Ðalet.

3 Huy hoàng lẫm liệt, công việc Người làm, - - Hê.

và sự công chính của Người sẽ bền mãi mãi. - - Vav.

4 Người đã ghi lại các kỳ công Người làm, - - Zain.

từ bi và trắc ẩn, Ðức Yavê, - - Het.

5 Người đã ban lương thực cho những ai kính sợ Người, - - Tet.

Giao ước của Người, Người sẽ ghi nhớ muôn đời. - - Yôđ.

6 Sức mạnh việc Người, - - Kaph.

Người đã loan báo cho dân Người,

là ban cho chúng cơ nghiệp các dân. - - Lameđ.

7 Các việc tay Người đều là tín thành chính trực, - - Mem.

các mệnh lệnh của người hết thảy vững bền, - - Nun.

8 được lập ra cho muôn đời muôn kiếp, - - Samek.

được phân định theo sự thật lẽ ngay. - - Ain.

9 Người đã sai đến cho dân Người ơn cứu chuộc, - - Phê.

Người đã truyền giao ước - - Xađê.

của Người cho đến muôn đời.

Danh Người, Danh thánh và đáng sợ. - - Qoph.

10 Ðầu mối khôn ngoan, ấy là kính sợ Yavê: - - Resh.

Ai tuân giữ lấy mới là tuyệt hảo tinh khôn, - - Shin.

lời ngợi khen Người sẽ vững bền mãi mãi. - - Tav.

 

Thánh Vịnh 112 (111)

Hạnh phúc của người công chính

1 Alleluia!

Phúc thay con người kính sợ Yavê, - - Aleph.

và vui sướng rất mực nơi các lệnh truyền! - - Bet.

2 Dòng giống người sẽ nên hùng cường trên đất, - - Gimel.

thế đại người chính trực sẽ được chúc lành. - - Ðalet.

3 Nơi nhà người phú túc giàu sang, - - Hê.

đức công chính của người sẽ bền mãi mãi. - - Vav.

4 Giữa tối tăm, ánh sáng đã rạng cho những người ngay, - - Zain.

từ bi, chính trực và trắc ẩn. - - Het.

5 Tốt lành thay, kẻ thương người, sẵn cho vay mượn, - - Tet.

và thu xếp việc vàn theo đức công minh, - - Yođ.

6 vì đời đời, người sẽ không lay. - - Kaph.

Danh người công chính sẽ được muôn đời ghi nhớ. - - Lameđ.

7 Tin dữ, người không phải sợ, - - Mem.

lòng người sẵn sàng trông cậy Yavê, - - Nun.

8 vững vàng, lòng người không sợ, - - Samek.

nên người sẽ nhìn thẳng địch thù không nao. - - Ain.

9 Cho kẻ nghèo, người rộng tay bố thí, - - Phê.

đức công chính của người sẽ bền mãi mãi, - - Xađê.

và uy người vinh hiển giương cao. - - Qoph.

10 Thấy thế kẻ dữ căm hờn, - - Resh.

nó nghiến răng nhưng điều tàn bất lực, - - Shin.

điều ác nhân mong muốn sẽ phải tiêu ma. - - Tav.

 

Thánh Vịnh 113 (112)

Ngợi khen Yavê, Thiên Chúa của người khiêm hạ

1 Alleluia!

Hỡi các tôi tớ Yavê, hãy ngợi khen,

hãy ngợi khen Danh Ðức Yavê!

2 Ðáng chúc tụng thay Danh Ðức Yavê,

từ hôm nay cho đến muôn đời!

3 Từ phương Ðông cho đến phương Tây,

đáng ngợi khen thay, Danh Ðức Yavê!

4 Yavê, siêu vời vượt cả muôn dân,

và vinh quang Người quá các tầng trời!

5 Ai nào như Ðức Yavê, Thiên Chúa chúng ta,

Ðấng ngự trên chốn cao vời,

6 Người cúi nhìn xem cả trời lẫn đất,

7 Ðấng nhắc mọn hèn lên từ tro bụi,

và nâng nghèo khó khỏi đống phân nhơ,

8 để cho cùng ngồi với hàng quyền quí,

cùng với hàng quyền quí của dân Người.

9 Ðấng gầy dựng cho người son sẻ,

nên mẹ hiền sung sướng đông con!

 

Thánh Vịnh 114 (113a)

Ca vãn Vượt qua

Alleluia!

1 Thuở Israel ra khỏi Aicập,

thuở nhà Yacob thoát dân man di,

2 Yuđa đã nên thánh điện của Người,

Israel là phần lãnh địa.

3 Biển vừa thấy đã vội lẩn trốn,

Yorđan thì tháo chạy ngược giòng.

4 Như cừu nậy núi non chồm nhẩy,

gò nỗng tung tăng như thể chiên dê.

5 Biển kia, có gì ngươi lẩn trốn?

Yorđan, sao ngươi đảo ngược giòng?

6 Núi non hỡi, sao nhảy chồm như cừu nậy?

gò nỗng ơi, sao lại tung tăng như thể chiên dê?

7 Trước nhan Chúa Tể, hỡi đất, hãy rùng mình,

trước nhan thánh Chúa Trời Yacob.

8 Ðấng biến thạch nham thành vũng nước,

và viên đá cuội nên suối nước trong.

 

Thánh Vịnh 115 (113b)

Mình Thiên Chúa là đích thực

1 Không phải chúng tôi, lạy Yavê,

không phải chúng tôi, nhưng là Danh Người!

Xin hãy rạng vinh quang,

vì ơn Người và vì sự thật của Người!

2 Làm sao các dân lại rêu rao:

"Nào đâu thần của chúng?"

3 Thiên Chúa chúng tôi, Người ở trên trời,

Người muốn gì thì Người làm nấy.

4 Thần tượng của chúng là bạc là vàng,

do chính tay phàm nhân đã tạo;

5 Miệng có đó, nhưng chúng không nói,

mắt có đó, nhưng chúng chẳng nhìn.

6 Tai có đó, nhưng chúng không nghe,

mũi có đó, nhưng chúng không ngửi,

7 chúng có tay mà chúng không rờ,

chúng có chân mà chúng chẳng đi,

và họng chúng không hề phát ra thành tiếng.

8 Hãy nên như chúng, kẻ tạo ra chúng,

và kẻ nào tin cậy vào chúng.

9 Israel hỡi, hãy tin cậy Yavê!

Sức hộ vực và thuẫn đỡ họ là chính Người.

10 Nhà Aharôn hỡi, hãy tin cậy Yavê!

Sức hộ vực và thuẫn đỡ họ là chính Người.

11 Hỡi những ai kính sợ Yavê, hãy tin cậy Yavê!

Sức hộ vực và thuẫn đỡ họ là chính Người.

12 Yavê đã nhớ đến ta, Người sẽ chúc lành,

Người sẽ chúc lành cho nhà Israel,

Người sẽ chúc lành cho nhà Aharôn,

13 Người sẽ chúc lành cho kẻ kính sợ Yavê,

kẻ bé làm một với người lớn.

14 Ước gì Yavê cho các ngươi thêm đông đảo,

các ngươi và con cái các ngươi!

15 Ước gì các ngươi được Yavê chúc lành

Ðấng tạo thành trời đất!

16 Trời là trời của Yavê,

còn đất, Người đã ban cho con cái loài người.

17 Ca ngợi Yavê nào phải thây ma,

nào phải vong hồn trong chốn lặng thinh!

18 Nhưng chúng ta đây là [những kẻ sống]

sẽ chúc tụng Yavê hôm nay và đến muôn đời!

 

Thánh Vịnh 116 (114-115)

Tạ ơn

Alleluia!

1 Tôi yêu mến [Yavê]

vì Người nghe tiếng tôi nài van,

2 vì Người đã lắng tai nghe tôi

[ngày] tôi kêu khấn.

3 Tròng tử thần bủa vây tôi và lưới âm phủ ập lại trên tôi,

tôi chỉ gặp thấy gian nan phiền sầu.

4 Tôi đã kêu khấn Danh Ðức Yavê:

"Ôi! lạy Yavê, xin cứu mạng tôi!"

5 Yavê từ bi chính trực,

Thiên Chúa chúng ta đầy lòng trắc ẩn,

6 Người gìn giữ những người chất phác;

Tôi hèn yếu, Người đã đáp cứu tôi.

7 Hồn tôi hỡi, hãy về nơi an nghỉ,

vì Yavê đã giáng phúc cho ngươi!

8 Vì người đã gỡ mạng tôi khỏi tay tử thần,

mắt tôi khỏi đẫm lệ, chân tôi khỏi trượt ngã.

9 Tôi sẽ đi đứng trước nhan Yavê,

nơi dương gian người sống.

10 Tôi vẫn tin, ngay cả khi tôi nói:

"Ôi! khổ quá thân tôi!"

11 Trong cơn hoảng hốt, tôi đã nói:

"Người phàm hết thảy, một lũ điêu ngoa!"

12 Nào tôi biết lấy gì mà báo đền Yavê,

vì bao ân lộc Người xuống trên tôi!

13 Tôi sẽ nâng lên chén hồng ân cứu độ,

và kêu Danh Yavê,

14 Lời tôi khấn với Yavê,

tôi xin giữ trọn, trước mặt toàn dân của Người.

15 Quí thay trước mắt Yavê,

cái chết của những ai thành tín với Người.

16 Ôi! lạy Yavê, tôi là tôi tớ của Người,

tôi là tôi tớ của Người, con của nữ nô nhà Người,

Người đã tháo gỡ xiềng xích cho tôi!

17 Tôi sẽ dâng Người lễ tế tạ ơn

và sẽ kêu Danh Yavê.

18 Lời tôi khấn với Yavê,

tôi xn giữ trọn, trước mặt toàn dân của Người.

19 Nơi tiền đình nhà của Yavê,

ở giữa ngươi, hỡi Yêrusalem!

 

Thánh Vịnh 117 (116)

Kêu gọi chúc tụng

Alleluia!

1 Muôn dân hết thảy, hãy ngợi khen Yavê,

và hết mọi dân nước, hãy tán tụng Người!

2 Vì ơn Người tuyệt vời trên chúng tôi,

và sự thật của Yavê miên man vạn đại!

Alleluia!

 

Thánh Vịnh 118 (117)

Phụng vụ lễ Lều

Alleluia!

1 Hãy cám tạ Yavê vì Người tốt lành,

vì ơn Người miên man vạn đại!

2 [Nhà] Israel hãy nói:

Vì ơn Người miên man vạn đại!

3 Nhà Aharôn hãy nói:

Vì ơn Người miên man vạn đại!

4 Những ai kính sợ Yavê, hãy nói:

Vì ơn Người miên man vạn đại!

5 Trong nỗi ngặt nghèo, tôi đã kêu Yavê,

Người đã đáp lại mà mở lối thênh thang.

6 Có Yavê với tôi trong đám người hộ vực,

tôi sẽ nhìn thẳng những kẻ ghét tôi!

8 Thà ẩn náu bên Yavê,

hơn là tin cậy người phàm!

9 Thà ẩn náu bên Yavê,

hơn là tin cậy người quyền quí!

10 Hết thảy dân ngoại bao vây tôi,

nhờ Danh Yavê, tôi làm cỏ chúng.

11 Chúng siết chặt, lớp lớp trùng vây,

nhờ Danh Yavê, tôi làm cỏ chúng.

12 Chúng bao vây tôi, như thể bầy ong,

nhưng chúng rụi tắt như ngọn lửa gai,

nhờ Danh Yavê, tôi làm cỏ chúng.

13 [Thiên hạ dồn dập ép] xô, để tôi bổ nhào,

nhưng Yavê đã đáp cứu tôi.

14 Yavê là sức mạnh và lời ca (nơi miệng) tôi,

Người đã nên nguồn tế độ cho tôi!

15 Tiếng reo vui khải hoàn,

nơi dinh trại hàng người công chính:

"Tay hữu Yavê đã ra uy,

16 Tay hữu Yavê rất cao cả,

Tay hữu Yavê đã ra uy!"

17 Không, tôi sẽ không chết, tôi sẽ sống,

và tôi sẽ kể lại những kỳ công Yavê làm;

18 Yavê đã trừng trị, Người đã trừng trị tôi,

nhưng Người chẳng để tôi phải chết.

19 Hãy mở cho tôi những cửa công chính,

tôi sẽ bước vào mà cám tạ Yavê,

20 Này đây cửa nhà Yavê,

những kẻ công chính sẽ được bước vào.

21 Tôi xin cám tạ Người, vì Người đã đáp lại lời tôi,

Người đã nên nguồn tế độ cho tôi.

22 Viên đá thợ xây đã thải,

thì lại thành đỉnh góc!

23 Sự đã xảy ra do bởi Yavê,

thật là sự lạ nơi mắt chúng ta!

24 Này là ngày Yavê đã làm,

trong ngày này, ta hãy reo vui mừng rỡ!

25 Ôi! lạy Yavê, xin hãy (ra tay) tế độ,

Ôi! Lạy Yavê, xin khấng cho thành sự!

26 Chúc muôn lành cho người nhân Danh Yavê mà đến,

tự Nhà Yavê, chúng tôi xin chúc lành cho các người.

27 Yavê là Thiên Chúa, Người rọi sáng chúng ta.

Hãy nối vòng kiệu, nhành lá kết cùng tứ giác bàn thờ.

28 Người là Thiên Chúa của tôi, tôi đội ơn Người,

Thiên Chúa của tôi, tôi tán dương Người!

29 Hãy cám tạ Yavê, vì Người tốt lành,

vì ơn Người miên man vạn đại!

 

Thánh Vịnh 119 (118)

Ca ngợi Lề luật

1 Phúc cho những ai nẻo đi trọn lành, - - Aleph.

những kẻ dõi theo thánh chỉ Yavê!

2 Phúc cho những ai nắm giữ chứng tri của Người,

những kẻ hết lòng tìm kiếm Người,

3 và không hề làm điều tà vạy,

nhưng hằng đi theo đường lối của Người.

4 Chính Người, Người đã truyền ra chiếu chỉ,

dạy phải giữ gìn cặn kẽ.

5 Ước gì đường lối tôi được vững bền,

để tuân giữ luật điều của Người!

6 Bấy giờ tôi sẽ chẳng phải xấu hổ,

khi tôi nhìn đến các lệnh Người truyền.

7 Lòng dạ ngay chính, tôi sẽ tạ ơn Người,

bởi được học biết các phán quyết công minh của Người,

8 Luật điều của Người, tôi xin tuân giữ,

xin chớ bỏ tôi đến cùng luôn mãi!

9 Bởi đâu niên thiếu giữ được đường đời tinh trong? - - Bet.

là bởi tuân giữ lời lẽ của Người.

10 Tôi hết lòng tìm kiếm Người,

xin chớ để tôi lạc xa các lệnh Người truyền!

11 Nơi đáy lòng tôi, tôi chôn kỹ sấm ngôn của Người,

để khỏi lỗi phạm đến Người.

12 Người đáng chúc tụng, lạy Yavê,

luật điều của Người, xin hãy dạy tôi!

13 Nơi môi miệng tôi, tôi đếm từng điều,

các phán quyết miệng Người đã ra.

14 Trên đường các chứng tri của Người đã vạch,

tôi sung sướng hơn nơi muôn lộc của đầy.

15 Tôi muốn gẫm suy các chiếu chỉ của Người,

và các nẻo đi của Người, tôi sẽ nhắm theo.

16 Nơi các luật điều của Người, tôi vui khoái,

tôi sẽ không quên lời lẽ của Người.

17 Xin hãy gia ân cho tôi tớ Người, cho tôi được sống, - - Gimel.

và tôi sẽ tuân giữ lời lẽ của Người.

18 Xin mở mắt tôi, cho tôi nhìn thấy,

những kỳ công do thánh chỉ của Người.

19 Tôi là khách ngụ trần gian,

xin chớ giấu tôi các lệnh Người truyền.

20 Hồn tôi ốm liệt bởi ước mong,

phán quyết của Người mọi buổi.

21 Người đe chừng phường kiêu mạn, những đồ chúc dữ,

những kẻ lạc xa các lệnh Người truyền.

22 Xin hãy đẩy xa tôi, lời thóa mạ khinh phiêu,

vì tôi nắm giữ chứng tri của Người.

23 Dù cho quan quyền hội lại chống đối tôi,

tôi tớ Người vẫn gẫm suy luật điều của Người.

24 Chứng tri của Người là nguồn vui khoái cho tôi;

tư vấn của tôi là các luật điều Người ra.

25 Mạng tôi đã lê sát bụi, - -  Ðalet.

chiếu theo lời Người, xin cứu sống tôi.

26 Ðường đời tôi, tôi thuật lại và Người đã nhận lời tôi,

luật điều của Người, xin hãy dạy tôi.

27 Xin cho tôi am tường con đường chiếu chỉ của Người,

để tôi gẫm suy trên các kỳ công Người làm.

28 Hồn tôi tan thành dòng lệ,

chiếu theo lời Người, xin cho tôi chỗi dậy.

29 Con đường gian dối, xin rẽ xa tôi,

xin thương ban cho tôi thánh chỉ của Người.

30 Ðường sự thật, tôi đã chọn,

tôi đã rập theo phán quyết của Người.

31 Tôi đã bám vào chứng tri của Người,

lạy Yavê, xin chớ để tôi phải xấu hổ.

32 Tôi chạy theo đường lệnh truyền của Người,

bởi Người cho lòng tôi phơi phới.

33 Xin dạy tôi, lạy Yavê, đường lối luật điều,

tôi xin nắm giữ đến cùng.

34 Xin cho tôi am hiểu mà nắm giữ luật điều,

để tôi giữ lấy hết lòng.

35 Xin cho tôi vững bước trên nẻo đi lệnh truyền,

vì nó là nguồn sung sướng của tôi.

36 Xin hướng lòng tôi về với chứng tri của Người,

chứ đừng về với tham lam trục lợi.

37 Xin cho mắt tôi khỏi thấy diều huyễn hoặc,

trên đường lối của Người, xin cứu sống tôi.

38 Xin cho tôi tớ Người được thấy

sấm ngôn của Người ứng nghiệm,

ngõ hầu thiên hạ kính sợ Người.

39 Xin cho nỗi sỉ nhục tôi sợ lướt qua,

vì thật tốt lành, các phán quyết của Người.

40 Này tôi ao ước chiếu chỉ của Người,

vì Người công chính, xin cứu sống tôi.

41 Lạy Yavê, ước gì ơn Người đến với tôi,

ơn tế độ, chiếu theo lời sấm của Người!

42 Cho tôi đáp lời chống lại kẻ thóa mạ tôi,

vì tôi tin cậy vào lời Người nói.

43 Xin chớ giựt khỏi miệng tôi lời sự thật,

vì tôi trông cậy vào các phán quyết của Người.

44 Tôi xin tuân giữ luật Người luôn luôn,

đời đời mãi mãi.

45 Tôi sẽ ung dung tiến bước,

vì tôi tìm kiếm chiếu chỉ của Người.

46 Tôi sẽ nói lên chứng của Người,

trước mặt vua chúa mà chẳng thẹn thuồng.

47 Tôi vui khoái nơi các lịnh truyền Người ban,

tôi yêu quí chúng [vô ngần].

48 Tôi giương tay lên các lệnh truyền của Người

và tôi gẫm suy trên các luật điều Người dạy.

49 Xin nhớ đến lời Người ban cho tôi tớ Người, - - Zain.

nhờ đó Người đã cho tôi được cậy trông.

50 Ðiều an ủi tôi trong cơn khốn khó,

là vì sấm ngôn của Người sẽ cứu sống tôi.

51 Phường kiêu mạn tha hồ nhạo báng tôi,

tôi đã không chệch khỏi thánh chỉ của Người.

52 Tôi nhớ đến phán quyết ngàn xưa của Người,

lạy Yavê, và tôi lấy làm an ủi.

53 Tôi tức điên lên vì lũ ác nhân,

những kẻ bỏ lơ thánh chỉ của Người.

54 Luật điều của Người là bài ca (nơi miệng) tôi,

nơi đất khách quê người.

55 Thâu đêm tôi nhớ đến Danh Người, lạy Yavê,

tôi xin tuân giữ thánh chỉ của Người.

56 Ðiều này đã thuộc phần tôi:

Là nắm giữ chiếu chỉ của Người.

57 Phần của tôi, lạy Yavê, tôi xin tuyên bố: - - Het.

Ấy là tuân giữ lời lẽ của Người.

58 Hết lòng tôi, tôi cố làm nguôi nhan Người,

xin thương xót tôi, chiếu theo sấm ngôn của Người.

59 Tôi đã đắn đo đường lối tôi đi,

tôi quyết hướng chân về với chứng tri của Người.

60 Tôi đã vội vã chứ không chần chờ,

để giữ các lệnh truyền Người ban.

61 Tròng bẫy ác nhân quấn lại quanh tôi,

thánh chỉ của Người, tôi đã không quên.

62 Nửa đêm tôi dậy, để tạ ơn Người,

vì các phán quyết công minh của Người.

63 Với những ai kính sợ Người hết thảy, tôi là bạn thân,

cùng với những ai tuân giữ chiếu chỉ của Người.

64 Ơn Người, lạy Yavê, tràn đầy dương thế,

luật điều của Người, xin hãy dạy tôi.

65 Người đã xử hậu với tôi tớ Người, - - Tet.

lạy Yavê, theo lời Người đã phán.

66 Xin dạy cho tôi, lương tri cùng hiểu biết,

vì tôi tin các lệnh truyền Người ban.

67 Khi chưa gặp phải khốn khó, tôi đã lạc lầm,

nhưng bây giờ tôi xin tuân giữ sấm ngôn của Người.

68 Người tốt lành và hằng làm nghĩa,

luật điều của Người, xin hãy dạy tôi.

69 Những kẻ ngạo mạn lếu láo bôi nhọ cho tôi,

nhưng tôi hết lòng nắm giữ chiếu chỉ của Người.

70 Lòng chúng như bị mỡ đóng đầy,

còn tôi, tôi vui khoái trong thánh chỉ của Người.

71 Cho đi phải khổ cũng là phúc may,

để tôi biết học luật điều Người ra.

72 Thánh chỉ miệng Người, tôi quí,

hơn cả nghìn vàng muôn bạc.

73 Tay Người đã dựng, đã lập nên tôi,

xin cho tôi am hiểu mà học biết lệnh truyền.

74 Những ai kính sợ Người thấy tôi thì được mừng vui,

vì nơi lời Người, tôi trông cậy.

75 Tôi biết, lạy Yavê, phán quyết của Người thật là công minh,

và Người có để tôi khổ cũng là phải lẽ.

76 Ước gì có được ơn Người làm nguồn an ủi cho tôi,

chiếu theo sấm ngôn của Người cho tôi tớ Người

77 Ước gì lòng trắc ẩn của Người đến cho tôi sống,

vì luật Người là sự vui khoái của tôi.

78 Lũ kiêu mạn hãy bẽ mặt vì chúng đã hành hạ tôi cách vô lý,

còn tôi, tôi vẫn gẫm suy chiếu chỉ của Người.

79 Những ai kính sợ Người hãy quay lại với tôi,

những kẻ biết chứng tri của Người.

80 Chớ gì lòng tôi trọn niềm với các luật điều Người ra,

cho tôi khỏi phải thẹn thuồng.

81 Hồn tôi tiêu hao mong ơn cứu độ của Người,

nơi lời Người, tôi trông cậy.

82 Mắt tôi mòn mỏi vì sấm ngôn của Người,

tôi nói: Bao giờ Người mới an ủi tôi?

83 Dẫu thân tôi như bì da hun khói,

luật điều của Người, tôi đã không quên.

84 Tính được bao nhiêu ngày đời của tôi tớ Người?

Bao giờ Người mới xử án những kẻ bách hại tôi?

85 Phường kiêu mạn đào lỗ hại tôi,

trái với luật Người.

86 Lệnh truyền của người thay thảy đều là sự thật,

chúng bắt bớ tôi vô cớ, xin hãy cứu tôi!

87 Tí nữa, chúng tiêu diệt tôi khỏi mặt đất,

phần tôi, tôi đã không bỏ chiếu chỉ của Người,

88 Chiếu theo ơn Người, xin cứu sống tôi,

để tôi tuân giữ chứng tri miệng Người.

89 Lời Người, lạy Yavê, cho đến muôn đời,

hằng kiên vững nơi trời cao.

90 Ðời này qua đời khác, lòng tín nghĩa của Người,

chính Người đã chống đỡ cho đất vững bền.

91 Do bởi phán quyết của Người,

vạn vật được vững hôm nay,

vì muôn sự đều là tôi tớ của Người.

92 Ví thử luật Người không phải là nguồn vui khoái cho tôi,

ắt tôi đã hư đi trong cơn khốn khó.

93 Cho đến đời đời tôi sẽ không quên chiếu chỉ của Người,

vì chính do đó Người cứu sống tôi.

94 Tôi thuộc về Người, xin hãy cứu tôi,

vì tôi tìm kiếm chiếu chỉ của Người.

95 Lũ ác nhân rình chực hại tôi,

tôi vẫn chăm chú vào các chứng tri của Người.

96 Những cái tuyệt hảo trên đời, tôi thấy có cùng hết thảy,

nhưng lệnh truyền của Người bao la vô hạn.

97 Tôi yêu quí luật Người dường bao, - - Mem.

suốt ngày, đó là để tôi suy gẫm.

98 Bởi lệnh truyền, Người làm tôi khôn hơn thù địch,

vì cho đến đời đời, đó là phần tôi.

99 Tôi được tinh khôn hơn cả những thầy dạy tôi,

vì chứng tri của Người là để tôi suy gẫm.

100 Tôi được am hiểu hơn kẻ già nua tuổi tác,

vì tôi mắm giữ chiếu chỉ của Người.

101 Nẻo dữ, chân tôi đã tránh hết thảy,

cốt để tuân giữ lời Người.

102 Tôi không rời khỏi phán quyết của Người,

vì chính Người đã chỉ giáo cho tôi.

103 Lời Người dịu ngọt dường bao nơi lưỡi tôi,

hơn mật ong ngậm miệng.

104 Nhờ chiếu chỉ của Người, tôi được am hiểu,

làm tôi ghét mọi nẻo đường dối trá.

105 Lời Người là đèn rọi bước chân tôi, - - Nun.

ánh sáng cho nẻo đường tôi đi.

106 Tôi đã thề và tôi sẽ giữ lời cam kết,

là tuân giữ các phán quyết công minh của Người.

107 Tôi bị khốn khổ ê chề,

lạy Yavê, chiếu theo lời Người, xin cứu sống tôi!

108 Của lễ miệng tôi, xin khấng nhậm, lạy Yavê,

phán quyết của Người, xin hãy dạy tôi.

109 Mạng tôi hầu như luôn luôn chết hụt,

nhưng tôi đã không quên thánh chỉ của Người.

110 Lũ ác nhân gài bẫy hại tôi,

nhưng tôi đã không lạc xa chiếu chỉ của Người.

111 Chứng tri của Người, tôi hưởng làm cơ nghiệp muôn đời,

đó là nguồn hoan lạc của tôi.

112 Tôi hướng lòng làm theo luật điều Người dạy,

mãi mãi đến cùng!

113 Tôi ghét những phường nhị tâm - - Samek.

và tôi yêu quí thánh chỉ của Người.

114 Người là nơi tôi ẩn náu, và thuẫn đỡ của tôi,

nơi lời Người, tôi trông cậy.

115 Hãy xéo đi xa ta, phường ác quái,

để ta nắm giữ lệnh truyền Thiên Chúa của ta.

116 Theo sấm ngôn Người, xin hộ vực cho tôi được sống,

xin chớ để tôi phải xấu hổ thất vọng.

117 Xin chống đỡ tôi cho tôi được thoát,

luật điều của Người, tôi sẽ luôn nhắm đến.

118 Người xua đi mọi kẻ lạc xa luật điều Người dạy,

mánh lới của chúng, một trò bịp bợm.

119 Ác nhân trên trần hết thảy,

người trừ đi như đồ ố rỉ,

nên tôi yêu quí chứng tri của Người.

120 Trước mặt Người, xác tôi kinh hãi run lên,

tôi kính sợ phán quyết chính Người đã ra.

121 Tôi đã thực hành công minh chính trực, - - Ain.

xin chớ thí tôi mặc người ta áp bức.

122 Xin bảo lãnh hạnh phúc cho tôi tớ Người,

đừng để lũ kiêu mạn áp bức được tôi.

123 Mắt tôi mòn mỏi mong ơn Người cứu thoát,

và sấm ngôn ngay chính của Người.

124 Xin hãy xử tôi tớ Người, chiếu theo ơn Người,

luật điều của Người, xin cho tôi am hiểu,

125 Tôi là tôi tớ của Người, xin cho tôi am hiểu,

hầu tôi được biết chứng tri của Người.

126 Ðã đến lúc phải can thiệp, lạy Yavê,

chúng đã vi phạm luật Người.

127 Cho nên tôi yêu quí lệnh truyền của Người,

hơn cả vàng ròng, kim luyện.

128 Nên tôi đã dõi theo các chiếu chỉ của Người,

tôi ghét mọi nẻo đường dối trá.

129 Nhiệm mầu thay, các chứng tri của Người,

cho nên hồn tôi nắm giữ.

130 Lời Người diễn ra sẽ làm rạng sáng,

làm cho chất phác cũng được am tường.

131 Tôi há miệng hớp lấy,

vì tôi nong nả cho được lệnh truyền Người ban.

132 Xin hãy đoái nhìn, xin hãy dủ thương,

như Người thường xử với những ai yêu mến Danh Người.

133 Nhờ sấm ngôn Người, xin cho bước chân tôi kiên vững,

chớ để điều gì tai quái chế ngự được tôi.

134 Xin hãy giải thoát tôi khỏi phàm nhân áp bức,

cho tôi tuân giữ chiếu chỉ của Người.

135 Xin hãy rọi ánh nhan Người trên tôi tớ Người,

và luật điều của Người, xin hãy dạy tôi.

136 Mắt tôi nhỏ lệ ròng ròng,

vì chúng chẳng tuân giữ luật Người.

137 Người thật công chính, lạy Yavê, - - Xađê.

và chính trực trong các phán quyết của Người.

138 Người đã truyền dạy chứng tri theo lẽ công minh,

trọn niềm theo sự thật.

139 Lòng nhiệt thành làm tôi tiêu tán,

vì những kẻ nghịch cùng tôi đã quên lời Người.

140 Sấm ngôn của Người rất mực luyện ròng,

và tôi tớ Người mến chuộng.

141 Tôi nhỏ hèn và bị khinh phiêu,

nhưng tôi không quên chiếu chỉ của Người.

142 Ðức công chính của Người, lẽ công minh vạn đại,

và thánh chỉ của Người là sự thật.

143 Quẫn bách ngặt nghèo đổ dồn vào tôi,

lệnh truyền của Người là nguồn vui khoái cho tôi.

144 Chứng tri của Người, lẽ công minh vạn đại,

xin cho tôi am hiểu, ngõ hầu được sống.

145 Tôi kêu khấn hết lòng, - - Qoph.

xin đáp lại lời tôi, lạy Yavê,

cho tôi nắm giữ luật điều Người ban.

146 Tôi kêu khấn Người, xin hãy cứu tôi,

cho tôi tuân giữ chứng tri của Người.

147 Ðón trước hừng đông, tôi kêu cứu,

nơi lời Người, tôi trông cậy.

148 Mắt tôi đón trước canh khuya,

để suy gẫm sấm ngôn của Người.

149 Theo lượng ơn Người, xin nghe tiếng tôi,

lạy Yavê, chiếu theo phán quyết của Người,

xin cứu sống tôi.

150 Những kẻ bắt bớ tôi sát gần ô trọc,

nhưng chúng lìa xa thánh chỉ của Người.

151 Còn Người, Người gần kề bên, lạy Yavê,

và lệnh truyền của Người hết thảy đều là sự thật.

152 Về chứng tri của Người, từ lâu tôi đã biết,

là Người đã thiết lập chúng cho đến đời đời.

153 Hãy xem nỗi khổ của tôi và giựt thoát tôi, - - Resh.

vì luật Người, tôi đã không quên.

154 Chúng kiện tôi, xin hãy bênh chữa, chuộc lấy tôi,

chiếu theo sấm ngôn của Người, xin cứu sống tôi.

155 Ơn cứu độ xa bọn ác nhân,

bởi chúng không tìm thấy luật điều của Người.

156 Lòng trắc ẩn của Người bao la, lạy Yavê,

chiếu theo phán quyết của Người, xin cứu sống tôi.

157 Chúng đông đảo, những kẻ bắt bớ, nhiễu hại tôi,

nhưng tôi đã chẳng sai chậy chứng tri của Người.

158 Tôi đã thấy phường bội phản mà ớn,

vì chúng không tuân giữ sấm ngôn của Người,

159 Hãy xem tôi yêu quí chiếu chỉ của Người,

lạy Yavê, chiếu theo ơn Người, xin cứu sống tôi.

160 Ðầu mối lời Người chính là sự thật,

các phán quyết công minh của Người sẽ vững muôn đời.

161 Quan quyền bắt bớ tôi vô cớ, - - Shin.

nhưng lòng tôi chỉ hãi sợ lời Người.

162 Tôi vui khoái nơi sấm ngôn của Người,

như kẻ hôi được nhiều chiến phẩm.

163 Tôi ghét gian tà, tôi ghê tởm,

nhưng tôi yêu quí luật Người.

164 Mỗi ngày bảy lần, tôi ngợi khen Người,

và những phán quyết công minh của Người.

165 Bình an chan chứa trên kẻ yêu mến luật Người,

không gì làm chúng vướng chân vấp ngã.

166 Tôi trông vào ơn cứu độ của Người, lạy Yavê,

và tôi thi hành lệnh Người truyền ra.

167 Hồn tôi tuân giữ chứng tri của Người,

và tôi yêu quí chúng vô hạn.

168 Tôi tuân giữ chiếu chỉ và chứng tri của Người,

vì đường lối của tôi, tất cả ở trước mặt Người.

169 Xin cho tiếng tôi van thấu đến nhan Người, - - Tav.

lạy Yavê, xin cho tôi am hiểu, chiếu theo lời Người.

170 Ước gì lời tôi khẩn nguyện đến trước nhan Người,

chiếu theo sấm ngôn của Người, xin hãy cứu tôi.

171 Môi tôi hãy rao lên lời ca ngợi,

vì luật điều của Người, Người dạy cho tôi.

172 Lưỡi tôi hãy lập lại sấm ngôn của Người,

vì mọi lệnh truyền của Người đều là công chính.

173 Ước gì tay Người hộ vực tôi,

vì tôi đã chọn chiếu chỉ của Người.

174 Tôi mong mỏi ơn cứu độ của Người, lạy Yavê,

vì luật Người là nguồn vui khoái cho tôi.

175 Xin cho hồn tôi được sống mà ngợi khen Người,

và các phán quyết của Người hộ vực cho tôi.

176 Tôi phiêu linh như con chiên lạc,

xin tìm kiếm tôi tớ Người,

vì tôi đã không quên các lệnh truyền Người ban.

 

Thánh Vịnh 120 (119)

Kẻ thù của bình an

1 Ca ngợi lên Ðền.

Khi tôi lâm bĩ, tôi kêu khấn với Yavê,

và Người đã đáp lại lời tôi.

2 Yavê, xin hãy giựt mạng tôi khỏi môi miệng điêu ngoa,

khỏi lưỡi gian tà!

3 Nào Người sẽ giáng xuống gì cho ngươi,

và đổ thêm gì cho đáng tội, hỡi lưỡi gian ngoa?

4 Mũi tên binh hùng mài nhọn,

trên than hồng kim tước!

5 Khốn thân tôi phải ngụ nhờ Mêsek,

phải trú ẩn bên lều trại Qêđar!

6 Mạng tôi đã trú ngụ quá lâu,

giữa những kẻ thù ghét bình an!

7 Tôi, tôi những muốn nói: Bình an,

còn chúng, chúng phò binh đao.

 

Thánh Vịnh 121 (120)

Ðấng chăn dắt Israel

1 Ca ngợi lên Ðền.

Tôi ngước mắt lên đồi núi,

ơn phù trợ từ đâu sẽ đến cho tôi?

2 Ơn phù trợ tôi do tự Yavê,

Ðấng tạo thành trời đất.

3 Xin Người chớ để chân ngươi phải núng,

xin Người đừng chợp mắt, Ðấng canh giữ ngươi.

4 Này đây Người không chợp mắt và không ngủ,

Ðấng canh giữ Israel.

5 Yavê là Ðấng canh giữ ngươi,

Yavê là bóng che ngươi, Người ở bên hữu ngươi.

6 Ban ngày mặt trời không đả thương ngươi,

và mặt trăng ban đêm cũng vậy.

7 Xin Yavê canh giữ ngươi khỏi mọi sự dữ,

xin Người canh giữ mạng ngươi.

8 Xin Yavê canh giữ ngươi khi ra khi vào,

từ bây giờ cho đến muôn đời.

 

Thánh Vịnh 122 (121)

Chào mừng Yêrusalem

1 Ca ngợi lên Ðền. Của Ðavít.

Tôi vui mừng, khi người ta nói cùng tôi:

"Nào! Ta đi nhà Yavê!"

2 Chân ta dừng nơi cửa thành ngươi,

hỡi Yêrusalem!

3 Yêrusalem hỡi! ngươi đã được xây lên

như một thành nhất khối liền nhau.

4 Nơi các chi tộc cùng lên,

các chi tộc của Yavê,

theo lệ đặt ra cho Israel là cám tạ Danh Ðức Yavê,

5 và nơi tọa lạc những tòa công lý,

ngai tòa của nhà Ðavít.

6 Hãy xin bình an cho Yêrusalem:

"Ước gì bình an trong thành lũy ngươi,

yên hàn nơi lầu gác của nhà ngươi!"

8 Vì thân bằng cố hữu của ta,

ta những muốn nói lên: Bình an cho ngươi!

9 Vì nhà Yavê, Thiên Chúa chúng ta,

ta cầu "phúc cho ngươi!"

 

Thánh Vịnh 123 (122)

Lời cầu của kẻ hẩm hiu

1 Ca ngợi lên Ðền.

Tôi ngước mắt lên cùng Người,

Ðấng ngự trời cao.

2 Này đây: Như mắt tôi tớ trông vào ông chủ,

như mắt nữ tỳ trông vào tay bà chủ,

mắt chúng tôi cũng vậy,

trông cả vào Yavê, Thiên Chúa chúng tôi,

cho đến khi Người thương đoái chúng tôi!

3 Xin hãy thương đoái chúng tôi, lạy Yavê,

xin hãy thương đoái chúng tôi!

vì chúng tôi đã chịu quá nhiều khinh bạc!

4 Hồn chúng tôi đã tràn ngập

nhạo báng của hạng người tự mãn,

và khinh bạc của phường kiêu căng.

 

Thánh Vịnh 124 (123)

Vị cứu tinh của Israel

1 Ca ngợi lên Ðền. Của Ðavít.

Ví thử chúng không có Yavê,

-- Israel hãy nói --

2 Ví thử chúng tôi không có Yavê,

thì phàm nhân dấy lên hại chúng tôi,

3 ắt chúng đã nuốt sống chúng tôi,

lúc chúng đùng đùng nổi giận với chúng tôi,

4 ắt cơn nước lũ đã cuốn chúng tôi,

thác ngàn đã tràn lút mạng chúng tôi,

5 ắt nó đã tràn lút mạng chúng tôi,

nước chảy ào ào!

6 Chúc tụng Yavê: Người đã không để chúng tôi

làm mồi cho nanh chúng!

7 Mạng chúng tôi như se sẻ

đã thoát bẫy người đánh chim.

Bẫy đã tan thành muôn mảnh,

còn chúng tôi, chúng tôi đã thoát!

8 Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi Danh Ðức Yavê,

Ðấng tạo thành trời đất!

 

Thánh Vịnh 125 (124)

Thiên Chúa phù trợ người nhà Ngài

1 Ca ngợi lên Ðền.

Những ai tin cậy vào Yavê thì giống như núi Sion!

Bất di bất dịch, đời đời vững chãi.

2 Yêrusalem tư bề có núi bao quanh,

cũng vậy, Yavê bao quanh dân Người,

từ bây giờ và cho đến muôn đời!

3 Vì phủ việt bất lương sẽ không an tọa

trên phần của hạng người công chính,

kẻo hàng những người công chính

lại nhúng tay vào điều tội ác.

4 Lạy Yavê, xin hãy giáng phúc cho người lương thiện,

và cho những kẻ lòng ngay.

5 Còn những kẻ chiều theo đường lối vạy vò,

ước gì Yavê xua đuổi chúng đi với phường tác quái!

Bình an cho Israel!

 

Thánh Vịnh 126 (125)

Bài ca hồi hương

1 Ca ngợi lên Ðền.

Thời Yavê đảo lại vận bĩ của Sion,

chúng tôi tựa hồ trong giấc chiêm bao.

2 Bấy giờ miệng chúng tôi sẽ rộn tiếng cười

và lưỡi chúng tôi, những lời reo vui.

3 Bấy giờ giữa các dân, người ta kháo láo:

"Lớn lao thay, việc Yavê đã làm cho họ!"

Phải, lớn lao thay việc Yavê đã làm cho chúng tôi,

chúng tôi hoan vui mừng rỡ!

4 Lạy Yavê, xin đảo lại vận bĩ của chúng tôi,

như doành nước Nam-sa.

5 Những kẻ gieo trong nước mắt,

sẽ gặt trong hân hoan.

6 Khi đi, họ vừa đi vừa khóc, quảy đầy lúa gieo,

khi về, họ về với tiếng reo vui, quảy những lượm lúa.

 

Thánh Vịnh 127 (126)

Phó thác nơi Ðấng quan phòng

1 Ca ngợi lên Ðền. Của Salômon.

Ví thử Yavê không xây nhà,

có vất vả xây dựng rồi cũng uổng công.

Ví thử Yavê không canh thành,

người canh giữ có thức tỉnh cũng uổng công!

2 Uổng công các ngươi dậy sớm,

hay vò võ canh khuya,

những kẻ ăn bánh lầm than đau khổ,

trong khi Người ban cho kẻ Người yêu đang ngủ.

3 Con cái hẳn là một gia nghiệp do tự Yavê,

hoa quả lòng dạ là một phần thưởng.

4 Như nắm tên trong tay binh thiện chiến,

những đứa con sinh lúc xuân xanh.

5 Phúc cho người có đầy bao, những mũi tên như thế,

họ sẽ không phải xấu hổ

khi cùng địch thù tranh luận chốn quyền môn.

 

Thánh Vịnh 128 (127)

Chúc lành cho kẻ trung tín

1 Ca ngợi lên Ðền.

Phúc cho mọi kẻ kính sợ Yavê,

kẻ đi theo đường lối của Người.

2 Công khó tay ngươi, ngươi sẽ được hưởng,

phúc cho ngươi và may mắn cho ngươi.

3 Vợ ngươi như cây nho sai quả,

ở chốn thâm khuê của nhà ngươi.

Con cái ngươi tựa những tía, cây dầu,

chúng quây quần tất cả bên mâm.

4 Sẽ được chúc lành như thế đó,

con người kính sợ Yavê!

5 Ước chi tự Sion, Yavê chúc lành cho ngươi,

cho ngươi được thấy phúc của Yêrusalem

mọi ngày đời ngươi!

6 Cho ngươi được thấy cháu chắt của ngươi!

Bình an cho Israel!

 

Thánh Vịnh 129 (128)

Chống lại kẻ thù của Israel

1 Ca ngợi lên Ðền.

Israel hãy nói:

Chúng đã hãm hại tôi ê hề từ lúc còn thơ.

2 Chúng đã hãm hại tôi ê hề từ lúc còn thơ,

nhưng chúng đã không sao đắc thắng trên tôi.

3 Trên lưng tôi thợ cày đã cày ngang dọc,

chúng xẻ bao luống cày dằng dặc!

4 Yavê là Ðấng công chính,

Người đã băm thừng chão của phường ác nhân.

5 Chúng hãy xấu hổ tháo lui,

hết thảy những ai thù ghét Sion!

6 Chúng hãy nên như cỏ mọc mái nhà,

đã khô héo trước khi người ta nhổ.

7 Người ta gặt không lấy đầy được nắm tay,

người lượm lúa không bỏ được đầy vạt áo;

8 Kẻ qua đường sẽ không nói:

"Chúc lành Yavê xuống trên các ngươi!"

Chúng tôi cầu cho các người muôn chúc lành,

nhân danh Ðức Yavê!

 

Thánh Vịnh 130 (129)

De Profundis (Tiếng kêu từ vực thẳm)

1 Ca ngợi lên Ðền.

Từ chốn thẳm sâu, tôi kêu lên Người, lạy Yavê:

2 Lạy Chúa tôi, xin nghe tiếng tôi!

Ước gì Người lắng tai nghe tiếng tôi van nài!

3 Ví thử Người muốn bắt tội, lạy Yavê,

thì ai nào đứng vững, lạy Chúa tôi?

4 Vì nơi Người là lượng dung thứ,

ngõ hầu còn có kẻ kính sợ Người.

5 Tôi trông cậy, lạy Yavê, hồn tôi trông cậy,

tôi những trông ở lời Người.

6 Hồn tôi [trông] vào Chúa tôi,

hơn lính canh trông sáng!

7 Hơn lính canh trông sáng,

Israel hãy trông vào Yavê,

vì có muôn ơn bên Ðức Yavê,

và bên Người lai láng ơn cứu chuộc!

8 Và chính Người sẽ cứu chuộc Israel

khỏi mọi tội ác họ làm.

 

Thánh Vịnh 131 (130)

Tinh thần thơ ấu

1 Ca ngợi lên Ðền. Của Ðavít.

Lạy Yavê, lòng tôi không tự cao,

mắt tôi không kiêu hãnh.

Tôi không tra chân tìm chuyện lớn lao,

những điều kỳ lạ quá sức của tôi.

2 Không, hồn tôi, tôi đã ru êm dỗ nín,

như nhũ tử trong lòng mẹ,

như một nhũ tử, hồn tôi ở trong tôi!

3 Israel hãy trông vào Ðức Yavê,

từ bây giờ cho đến muôn đời.

 

Thánh Vịnh 132 (131)

Kỷ niệm việc di chuyển Khám

1 Ca ngợi lên Ðền.

Xin hãy nhớ đến Ðavít, lạy Yavê,

đến nỗi vất vả của ông.

2 Khi ông thề với Yavê,

khi ông khấn hứa với uy linh của Yacob:

3 "Tôi thề không vào trướng đền tôi,

tôi thề không lên giường nằm nghỉ,

4 tôi thề không cho mắt tôi thiếp ngủ,

hay cho mi tôi nhắm lại,

5 trước khi tìm được chỗ cho Yavê,

ngôi nhà cho Uy linh của Yacob!"

6 Này đây chúng tôi nghe tin Khám ở tại Êphrata,

chúng tôi đã tìm thấy Khám trong đồng Yaar!

7 Ta hãy đến nơi Người ngự,

ta hãy thờ lạy trước bệ chân Người!

8 Xin hãy chỗi dậy, lạy Yavê, vào nơi Người nghỉ,

Người và Khám uy thiêng của Người.

9 Các tư tế của Người hãy mặc lấy chính trực,

và các kẻ thành tín với Người hãy reo vui!

10 Vì Ðavít tôi tớ Người,

xin chớ hắt hủi mặt vị Kitô của Người!

11 Yavê đã thề với Ðavít,

sự thật mà Người sẽ không hề hối lại:

"Hoa quả lòng dạ ngươi,

Ta sẽ đặt trên ngai hứa cho ngươi.

12 Ví bằng con cái ngươi giữ Giao ước của Ta,

và chứng tri Ta sẽ dạy chúng,

thì con cái chúng sẽ đời đời mãi mãi,

lên ngồi trên ngai hứa cho ngươi".

13 Vì Yavê đã chọn Sion,

Người muốn lấy đó làm nơi trấn ngự:

14 "Ðây là nơi Ta an nghỉ đời đời mãi mãi,

Ta sẽ ngự tại đó vì Ta muốn!

15 Trong đó, ta chúc lành cho hàng công chính,

những người nghèo khó, Ta sẽ cho no đầy bánh ăn,

16 Các tư tế, Ta sẽ mặc cho ơn cứu độ,

các kẻ thành tín sẽ reo hò mừng vui.

17 Tại đó, Ta sẽ làm Uy nảy chồi cho Ðavít,

Ta sẽ dọn chiếc đèn cho vị Kitô của Ta,

18 Ðịch thù của ngài, Ta sẽ mặc cho xấu hổ,

và trên ngài, triều thiên sẽ đơm hoa".

 

Thánh Vịnh 133 (132)

Ðời sống huynh đệ

1 Ca ngợi lên Ðền. Của Ðavít.

Này! Tốt đẹp dường bao! dịu ngọt dường nào!

anh em sum vầy với nhau!

2 Như dầu tốt tươi đổ trên đầu

lan cả xuống râu.

Từ râu Aharôn

lan xuống gấu áo chầu!

3 Như sương móc Hermon cao vọi,

sa xuống núi đồi Sion!

Chính ở đó Yavê đã giáng chúc lành,

và phúc trường sinh muôn kiếp!

 

Thánh Vịnh 134 (133)

Dùng trong một nghi lễ đêm

1 Ca ngợi lên Ðền.

Này, hãy chúc tụng Yavê!

hỡi tôi tớ của Người hết thảy,

những kẻ đứng chầu trong nhà Yavê,

[nơi tiền đình nhà của Thiên Chúa chúng ta]

2 Ðêm đêm hãy giương tay hướng lên thánh điện,

và hãy cùng chúc tụng Yavê,

3 Ước chi từ Sion, Yavê chúc lành cho ngươi,

Ðấng tạo thành trời đất!

 

Thánh Vịnh 135 (134)

Ca vãn ngợi khen

1 Alleluia!

Hãy ngợi khen Danh Ðức Yavê,

hãy ngợi khen, hỡi các tôi tớ Yavê!

2 Những kẻ đứng chầu trong nhà Yavê,

nơi tiền đình nhà của Thiên Chúa chúng ta,

3 Hãy ngợi khen Yavê, vì Yavê tốt lành,

hãy đàn ca Danh Người, Danh thật dịu hiền!

4 Vì Yavê đã chọn Yacob cho mình,

Israel làm của riêng Người.

5 Tôi biết, Yavê, Người thật lớn lao,

và Chúa muốn gì, Người làm nấy,

trên trời, dưới đất, trong biển và hết các vực thẳm.

7 Người cho mây tự mút cùng ùn lên,

Người làm sấm chớp dọn mưa,

tự trong kho của Người, Người rút ra gió bão.

8 Người đánh các con đầu lòng Aicập,

từ loài người dĩ chí súc vật.

9 Người sai dấu lạ điềm thiêng đến giữa ngươi,

đến giữa ngươi, hỡi Aicập,

chống lại Pharaô và hết thảy bầy tôi của nó.

10 Người đánh các dân vô số,

Người giết những vua hùng cường;

11 Sikhôn, vua Amori, và Og, vua xứ Basan,

cùng các vương quốc Canaan hết thảy.

12 Và Người đã ban đất đai của chúng làm cơ nghiệp,

làm cơ nghiệp cho Israel, dân Người.

13 Yavê, Danh Người miên man vạn đại!

Yavê, ký ức về Người từ đời này qua đời khác.

14 Vì Yavê phân xử cho dân Người,

và Người chạnh thương các tôi tớ Người.

15 Thần tượng của chúng là bạc là vàng,

do chính tay phàm nhân đã tạo.

16 Miệng có đó, nhưng chúng không nói,

mắt có đó, nhưng chúng chẳng nhìn,

17 tai có đó, nhưng chúng chẳng nghe,

mũi có đó, nhưng chúng chẳng ngửi.

18 Hãy nên như chúng, những kẻ đã tạo ra chúng,

và kẻ nào tin cậy vào chúng.

19 Nhà Israel hỡi, hãy chúc tụng Yavê,

nhà Aharôn hỡi, hãy chúc tụng Yavê.

20 Nhà Lêvi hỡi, hãy chúc tụng Yavê,

bởi những ai kính sợ Yavê, hãy chúc tụng Người!

21 Chúc tụng Yavê tự Sion,

Ðấng trấn ngự Yêrusalem!

 

Thánh Vịnh 136 (135)

Kinh cầu tạ ơn

Alleluia!

1 Hãy cám tạ Yavê, vì Người tốt lành,

vì ơn Người miên man vạn đại!

2 Hãy cám tạ Thần của cả chư thần,

vì ơn Người miên man vạn đại!

3 Hãy cám tạ Chúa của các Chúa,

vì ơn Người miên man vạn đại!

4 Một mình Người, Ðấng làm ra những kỳ công vĩ đại,

vì ơn Người miên man vạn đại!

5 Ðấng đã khôn khéo làm nên từng trời,

vì ơn Người miên man vạn đại!

6 Ðấng đã căng đất trên mặt nước,

vì ơn Người miên man vạn đại!

7 Ðấng đã tạo ra những chiếc đèn lớn lao,

vì ơn Người miên man vạn đại!

8 Vừng thái dương để cai ban ngày,

vì ơn Người miên man vạn đại!

9 Và trăng sao để cai ban đêm,

vì ơn Người miên man vạn đại!

10 Ðấng đã đánh Aicập nơi các con đầu lòng,

vì ơn Người miên man vạn đại!

11 Ðấng đã đem Israel ra khỏi xứ đó,

vì ơn Người miên man vạn đại!

12 Một cách thẳng cánh mạnh tay,

vì ơn Người miên man vạn đại!

13 Ðấng đã xẻ biển Sậy làm hai,

vì ơn Người miên man vạn đại!

14 Ðấng đã cho Israel băng qua biển,

vì ơn Người miên man vạn đại!

15 Ðấng đã lật nhào Pharaô cùng binh tướng trong Biển Sậy,

vì ơn Người miên man vạn đại!

16 Ðấng đã dẫn đường cho dân Người trong sa mạc,

vì ơn Người miên man vạn đại!

17 Ðấng đã đánh phạt những vua lớn,

vì ơn Người miên man vạn đại!

18 Và Người đã giết những vua uy thế,

vì ơn Người miên man vạn đại!

19 Sikhôn, vua Amori,

vì ơn Người miên man vạn đại!

20 Và or, vua xứ Basan,

vì ơn Người miên man vạn đại!

21 Và Người đã ban đất đai của chúng làm cơ nghiệp,

vì ơn Người miên man vạn đại!

22 Làm cơ nghiệp cho Israel, tôi tớ của Người,

vì ơn Người miên man vạn đại!

23 Ðấng đã nhớ đến chúng tôi trong thời đọa lạc,

vì ơn Người miên man vạn đại!

24 Và đã giựt chúng tôi khỏi tay địch thù,

vì ơn Người miên man vạn đại!

25 Người ban bánh ăn cho mọi xác phàm,

vì ơn Người miên man vạn đại!

26 Hãy cám tạ Chúa cả trên trời,

vì ơn Người miên man vạn đại!

 

Thánh Vịnh 137 (136)

Bài ca của kẻ bị lưu đày

1 Trên bờ sông Babylon,

chúng tôi ngồi đó, chúng tôi khóc,

mà tưởng niềm Sion.

2 Trên rặng liễu đó đây,

chúng tôi treo lên đàn cầm.

3 Ở đó họ réo với chúng tôi,

bọn cướp người, đòi lời ca vãn,

lũ đô hộ, muốn một khúc vui:

"Hát ta nghe ca vãn Sion đi nào!"

4 Mà làm sao chúng tôi hát được ca vãn Yavê

nơi đất khách quê người?

5 Ta mà quên ngươi, hỡi Yêrusalem,

thì tay phải ta cũng hãy quên ta!

6 Lưỡi ta hãy tê đi dính họng,

ví thử ta không nhớ đến ngươi,

ví thử ta chẳng nâng Yêrusalem

lên tuyệt đỉnh niềm vui trong đời!

7 Xin hãy nhớ (tội) con cái Eđom, lạy Yavê,

trong ngày của Yêrusalem,

ngày chúng nói: "Phá đi, phá đi cho thật bình địa!"

8 Nữ tử Babel đang chờ tiêu diệt,

phúc cho người xử ác với ngươi như ngươi xử ác với ta,

9 phúc cho người túm lấy con thơ ngươi,

mà xán vào đá!

 

Thánh Vịnh 138 (137)

Ca vãn tạ ơn

1 Của Ðavít.

Lạy Yavê, tôi xin cám tạ người hết lòng tôi,

vì Người đã khấng nghe lời miệng tôi,

trước mặt chư vị thần thánh tôi sẽ đàn ca cho Người.

2 Hướng về thánh điện Người, tôi phục lạy,

và tôi cám tạ Danh Người,

vì ơn Người, vì sự thật của Người,

vì sấm ngôn của Người, Người đã làm lớn quá,

mọi danh tiếng về Người.

3 Ngày tôi kêu lên, Người đã đáp lời,

[Người đã thêm] nhuệ khí cho hồn tôi.

4 Họ sẽ cám tạ Người, lạy Yavê, vua chúa trần gian hết thảy,

khi họ được nghe lời tự miệng Người,

5 và họ sẽ hát khen đường lối của Yavê;

"Lớn lao thay vinh quang của Ðức Yavê!

6 Yavê cao vời, nhưng Người đoái nhìn một kẻ khiêm ti,

kẻ tự cao, từ xa, Người thoảng biết đến".

7 Nếu tôi phải đi giữa ngặt nghèo,

Người sẽ cứu sống tôi,

địch thù tôi phải tức tối,

khi Người giương tay và tay phải Người tế độ cho tôi.

8 Yavê sẽ chu toàn mọi sự Người làm cho tôi,

lạy Yavê, ơn Người miên man vạn đại,

[công việc tay Người, xin Người chớ để dở chừng!]

 

Thánh Vịnh 139 (138)

Ca ngợi Ðấng thông biết mọi sự

1 Phần nhạc trưởng. Của Ðavít. Thánh vịnh.

Yavê, Người dò xét tôi và Người biết:

2 Người biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng,

từ xa, Người đã am tường ý nghĩ của tôi.

3 Tôi đi đường, tôi nằm giường, Người thấu được cả.

Người quen thuộc đàng tôi mọi ngỏ.

4 Vì lời tôi chưa thập thò đầu lưỡi,

mà kìa, lạy Yavê, Người đã biết hết.

5 Người chận tôi trước, Người ngừa tôi sau,

và trên tôi, Người đặt tay Người.

6 Tri thức thần diệu quá mức tôi,

siêu vời làm tôi vô phương đạt đáo.

7 Nào tôi đi đâu cho xa được Thần khí của Người,

nào tôi trốn đâu cho thoát được nhan Người?

8 Tôi có lên trời, thì ở đó đã có Người,

tôi có nằm nơi âm phủ, thì này Người đó!

9 Tôi có hay đi với đôi cánh rạng đông,

tôi có ở biệt nơi chân trời góc biển,

10 thì lại chính tay Người dẫn tôi đến,

và tay phải Người đã nắm dắt tôi.

11 Tôi mới nói: "Ít ra tối tăm có thể che khuất tôi đi,

ánh sáng quanh tôi trở thành đêm tối!"

12 Nhưng tối tăm cũng chẳng tối đủ đối với Người,

và đêm cũng rạng ngời như chính ngọ.

13 Tạng phủ tôi, chính Người đã gầy tạo,

Người đã dệt tôi trong dạ mẹ tôi.

14 Tôi xin ca tụng Người,

vì Người đã làm những sự lạ lùng kinh ngạc,

công trình của Người, toàn những kỳ công,

và hồn tôi biết lắm.

15 Xương cốt tôi không ẩn khuất với Người,

khi tôi được thành hình trong kín ẩn,

khi tôi được thêu dệt trong âm ti lòng đất.

16 Hành vi của tôi, mắt Người thấu rõ,

tất cả đã được ghi chép trong sổ của Người.

Ngày đời tôi đã được phân định,

trước khi chưa có một ngày nào.

17 Ðối với tôi, lạy Thiên Chúa,

ý nghĩ của Người thật huyền vi nan giải,

và cộng lại thời nhiều không biết cơ man!

18 Tôi muốn đếm, thì chúng còn nhiều hơn cát biển,

giật mình thức dậy, tôi vẫn còn đó với Người!

19 Lạy Thiên Chúa, chớ chi Người diệt đứa ác nhân

và những con người khát máu xéo đi xa tôi!

20 Chúng mưu mô đồ phản loạn với Người,

nhưng chúng rướn mình lên chống lại Người cách vô lối.

21 Há tôi lại không ghét những kẻ ghét Người đó ư, lạy Yavê?

Và nhờm tởm những kẻ dấy lên chống lại Người?

22 Tôi ghét chúng, ghét cay ghét đắng,

chúng là kẻ thù của tôi.

23 Xin hãy dò xét tôi, lạy Thiên Chúa, và hãy biết rõ lòng tôi,

xin hãy thí luyện tôi, và biết tỏ điều tôi lo lắng.

24 Hãy coi đường tà nào có nơi tôi,

và xin hãy dẫn tôi trên đường muôn thuở!

 

Thánh Vịnh 140 (139)

Chống lại phường gian ác

1 Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh. Của Ðavít.

2 Lạy Yavê, xin cứu tôi thoát người độc ác,

xin gìn giữ tôi khỏi những người hung bạo.

3 Những kẻ suy tính ác hiểm trong lòng,

ngày ngày chúng chỉ tìm gây hấn,

4 chúng mài lưỡi ví thể mãng xà,

dưới đôi môi tứa nọc rắn độc.

5 Xin canh giữ tôi khỏi tay ác nhân,

xin gìn giữ tôi khỏi những người hung bạo,

những kẻ suy tính để lật nhào chân tôi.

6 Lũ kiêu mạn đặt tròng hại tôi,

chúng căng dây làm lưới,

bên vỉa đường, chúng đã gài bẫy hại tôi.

7 Tôi đã thưa cùng Yavê: Người là Thiên Chúa của tôi,

lạy Yavê, xin hãy lắng tai nghe tiếng tôi van nài!

8 Yavê, lạy Chúa, uy lực cứu độ của tôi,

Người phủ đầu tôi trong ngày giao chiến.

9 Xin chớ để kẻ dữ toại nguyện,

chớ để nó thành đạt mưu cơ.

10 Chớ để chúng ngẩng đầu ra uy, những kẻ vây tôi,

độc ác môi miệng chúng hãy trùm lấy chúng!

11 Người hãy mưa xuống trên chúng, than hồng lửa cháy,

hãy cho chúng nhào hố sâu vô phương chỗi dậy!

12 Chớ để kẻ vu oan giá họa vững thế trên trần

và tai họa hãy dồn dập đuổi săn con người hung bạo.

13 Tôi biết: Yavê sẽ phân xử cho kẻ khó,

và giải oan cho người nghèo,

14 Vâng, những người công chính sẽ tạ ơn Danh Người,

và những kẻ ngay lành sẽ ở trước nhan Người.

 

Thánh Vịnh 141 (140)

Chống lại kẻ dữ lôi kéo

1 Thánh vịnh. Của Ðavít.

Lạy Yavê, tôi kêu với Người, xin mau đến với tôi,

xin lắng nghe tiếng tôi kêu lên Người.

2 Ước gì lời tôi nguyện lên hương trước nhan Người,

và tay tôi giơ lên làm lễ vật chiều hôm!

3 Lạy Yavê, xin đặt vệ phòng bên miệng tôi,

nơi cửa môi tôi, xin cho canh giữ.

4 Xin chớ để lòng tôi chiều theo sự dữ,

lăn lộn trong những việc bất lương,

hùa theo bọn người tác quái!

Vâng, cao lương mỹ vị của chúng, tôi không nếm.

5 Người lành vị tình, xin cứ đánh cứ phạt,

nhưng dầu thơm [kẻ dữ] đầu tôi sẽ không xức,

luôn luôn tôi nguyện, tôi cầu,

ngay giữa những kẻ dữ dằn độc ác!

6 Chúng đã rơi vào tay Ðá Tảng! Ðấng phán xét chúng,

nhưng Người nghe lời lẽ của tôi, niềm vui của Người,

7 như nơi thửa đất hủng hê nứt nẻ,

xương cốt chúng vãi tung nơi cửa âm ty,

8 Mắt tôi trông lên Người, lạy Yavê, Chúa tôi,

nơi Người, tôi nương ẩn, xin đừng thí bỏ mạng tôi,

9 xin giữ tôi khỏi tròng chúng giăng,

khỏi bẫy của phường tác quái.

10 Trong lưới chúng bày, ác nhân hãy nhào vào đó,

còn tôi, một mình tôi sẽ ngang qua!

 

Thánh Vịnh 142 (141)

Lời cầu của kẻ bị bách hại

1 Thi khúc. Của Ðavít. Khi Ðavít ở trong hang. Cầu nguyện.

2 Tiếng tôi kêu với Yavê,

tiếng tôi than với Yavê.

3 Trước nhan Người, tôi trào ra nỗi ưu tư,

trước nhan Người, tôi kể lại tình nông nỗi,

4 vào lúc khí lực tiêu hao,

nhưng Người, Người biết nẻo đường của tôi.

Dọc lối tôi đi,

chúng đã gài tròng cho tôi.

5 Ngoảnh qua bên phải mà coi:

Không còn người nào hỏi đến mạng tôi!

6 Tôi đã kêu lên với Người, lạy Yavê,

tôi nói: "Chính Người là nơi tôi ẩn náu,

phần dành cho tôi nơi đất sinh linh!

7 Xin lắng nghe lời tôi rên rỉ,

thân tôi đã quá long đong.

Xin giật tôi thoát những người hãm hại,

vì chúng mạnh quá sức tôi!

8 Xin kéo mạng tôi ra khỏi ngục tù,

để tôi cám tạ Danh Người.

Những người công chính sẽ quây vòng mừng tôi,

vì Người đã thi ân giáng phúc trên tôi.

 

Thánh Vịnh 143 (142)

Khiêm tốn van nài

1 Thánh vịnh. Của Ðavít.

Lạy Yavê, xin nghe lời tôi khẩn nguyện,

xin lắng tai nghe tôi van nài,

vì Người thành tín, xin nhậm lời tôi,

nhân vì đức độ của Người.

2 Xin đừng đưa kiện tôi tớ của Người,

vì không sinh linh nào là công chính trước nhan Người.

3 Kìa kẻ thù tróc nã mạng tôi,

sự sống tôi nó chà xuống đất,

nó cầm tôi trong tối, như kẻ đã chết bao đời.

4 Khí lực tôi đã tiêu hao,

lòng tôi đã chết đờ trong tôi.

5 Tôi nhớ lại những ngày xa xưa,

tôi ôn lại công trình của Người tất cả,

tôi gẫm suy các việc tay Người làm ra.

6 Tôi giang tay lên với Người,

trước mặt Người, hồn tôi như đất cạn khô.

7 Lạy Yavê, xin mau nhậm lời,

hơi tôi đã kiệt,

xin đừng lánh mặt với tôi,

e tôi sẽ giống những người chôn đáy hố sâu!

8 Sớm mai, xin báo cho tôi ơn Người,

vì tôi trông cậy vào Người,

xin dạy tôi biết con đường tôi đi,

vì tôi đã nhắc hồn lên với Người.

9 Xin cứu tôi thoát khỏi địch thù, lạy Yavê,

tôi đã ẩn núp bên Người,

10 xin dạy tôi làm thỏa ý Người,

vì chính Người là Thần của tôi.

Xin thần khí tốt hảo của Người dẫn tôi

nơi đất đai bằng phẳng!

11 Vì Danh Người, lạy Yavê, xin cứu sống tôi,

vì đức của Người, xin kéo mạng tôi khỏi nỗi quẫn cùng,

12 vì ơn Người, Người sẽ đánh tan các kẻ thù tôi,

Người sẽ diệt mọi kẻ nhiễu hại mạng tôi,

vì tôi là tôi tớ của Người.

 

Thánh Vịnh 144 (143)

Ca vãn trong chiến tranh và toàn thắng

1 Của Ðavít.

Chúc tụng Yavê, Tảng đá của tôi,

Ðấng luyện tay tôi xung trận,

ngón tay tôi tham chiến,

2 nơi tôi ẩn núp và là thành lũy của tôi,

đồn trú của tôi và là Ðấng giải thoát tôi,

khiên mộc của tôi, nơi Người tôi ẩn náu,

Ðấng bắt các dân hàng phục quyền tôi.

3 Lạy Yavê, người phàm là gì để Người biết đến,

và con người là gì để Người phải bận tâm?

4 Phàm nhân ví tợ chút hơi,

ngày đời nó như cái bóng lướt qua.

5 Lạy Yavê, xin Người đảo nghiêng tầng trời Người xuống,

Người đụng đến núi non là chúng nghi ngút khói!

6 Xin làm sấm sét đánh tan lũ thù,

xin rỉa tên bắn làm chúng tán loạn!

7 Trên cao, xin chìa tay xuống,

xin cứu lấy tôi, vớt tôi khỏi cơn nước lớn,

khỏi tay giống nòi tha phương,

8 mồm chúng ba hoa láo khoét,

và tay phải chúng, tay phải gian ngoa.

9 Lạy Thiên Chúa, tôi xin hát mừng Người một bài ca mới,

với nhạc kim huyền, tôi xin đàn ca cho Người.

10 Ðấng ban toàn thắng cho hàng vua chúa,

Ðấng đã cứu Ðavít tôi tớ của Người.

11 Xin cứu tôi khỏi gươm họa ác,

xin giựt tôi khỏi tay giống nòi tha phương,

mồm chúng ba hoa láo khoét,

và tay phải chúng, tay phải gian ngoa.

12 Nam nhi chúng tôi ví thể cây ương,

lớn tốt trong thời xuân xanh,

nữ nhi chúng tôi như tượng nhân trụ giác,

điêu trác đúng mẫu đền đài.

13 Kho lẫm chúng tôi đầy vựa,

tung ra thức này thức khác,

chiên dê chúng tôi ngàn ngàn,

sinh sôi vạn vạn trong đồng chúng tôi.

14 Bò của chúng tôi béo nẫy,

tường không đổ, nước không hàng,

ngoài phố phường không một tiếng kêu la.

15 Phúc thay dân được như thế,

phúc thay dân được Yavê làm Thần.

 

Thánh Vịnh 145 (144)

Ca tụng Yavê là Vua

1 Ngợi khen. Của Ðavít.

Tôi xin tán tụng Người, lạy Thiên Chúa, Ðức Vua tôi, - - Aleph.

tôi xin chúc tụng Danh Người đời đời kiếp kiếp.

2 Ngày ngày, tôi chúc tụng Người, - - Bet.

và ngợi khen Danh Người đời đời kiếp kiếp.

3 Yavê lớn lao và đáng ngợi khen vô ngần, - - Gimel.

Người lớn lao không sao dò thấu.

4 Ðời này tuyên dương cho đời khác công việc của Người, - - Ðalet.

và kể lại các huân công Ngưòi làm.

5 Lẫm liệt và vinh quang của oai phong Người, - - Hê.

[chúng sẽ nói]

những kỳ công Người làm, tôi sẽ gẫm suy.

6 Uy quyền đáng sợ của Người, chúng sẽ nói, - - Vav.

tôi sẽ thuật lại các sự lớn lao của Người.

7 Chúng sẽ nhắc đến lòng Người hải hà nhân hậu - - Zein.

và đức công chính Người, chúng sẽ cao rao.

8 Yavê từ bi và trắc ẩn, - - Het.

khoan dung và ơn cả nghĩa dày.

9 Yavê ở nhân từ với hết mọi người, - - Tet.

lòng thương của Người trên hết mọi công việc của Người.

10 Công việc của Người hết thảy sẽ ngợi khen Người, - - Yôđ.

lạy Yavê,

những kẻ thành tín với Người sẽ chúc tụng Người.

11 Vương quyền vinh hiển của Người chúng sẽ nói lên, - - Kaph.

và oai hùng Người, chúng sẽ giảng truyền.

12 Ðể tỏ cho con cái loài người biết các huân công - - Lameđ.

và vương quyền hiển vinh sáng lạn của Người,

13 vương quyền Người, vương quyền muôn vạn đại, - - Mem.

cuộc thống trị của Người mọi đời mọi kiếp.

[Yavê tín thành nơi mọi lời Người nói, - - (Nun).

và nhân nghĩa nơi mọi việc Người làm].

14 Yavê nâng đỡ mọi người ngã quỵ - - Semek.

và cho đứng thẳng những ai gục xuống.

15 Mắt mọi loài ngửa trông lên Người, - - Ain.

và đến bữa chính Người cho chúng ăn.

16 Người có mở tay, - - Phê.

sinh vật mới được no say phỉ nguyền hết thảy.

17 Yavê chính trực trong mọi lời Người phán, - - Xađê.

và nhân nghĩa nơi mọi việc Người làm.

18 Yavê gần bên mọi kẻ kêu cầu, - - Qoph.

hết thảy những ai thành khẩn kêu lên với Người.

19 Những ai kính sợ Người, - - Resh.

được Người làm theo sở nguyện.

Người sẽ nghe lời chúng kêu van và đáp cứu chúng.

20 Yavê gìn giữ mọi kẻ mến Người, - - Shin.

mọi kẻ ác đức, Người để diệt vong.

21 Miệng tôi sẽ nói lời khen ngợi Yavê, - - Tav.

mọi xác phàm sẽ chúc tụng thánh Danh Người

đời đời kiếp kiếp!

 

Thánh Vịnh 146 (145)

Ca ngợi Thiên Chúa hộ giúp

1 Alleluia!

Hãy ngợi khen Yavê, hồn tôi hỡi,

2 tôi muốn ngợi khen Người trót cả kiếp tôi,

và đàn ca Thần của tôi, bao lâu tôi còn sống!

3 Ðừng cậy vào người quyền quí,

nơi con kẻ phàm không đàng cứu thoát.

4 Tắt thở rồi nó về với đất

mưu cơ của nó ngày ấy sẽ phải tiêu ma.

5 Phúc thay người được Thần Yacob hộ giúp,

nơi Yavê Thần của nó, nó đã cậy trông.

6 Ðấng tạo thành trời đất biển khơi,

cùng mọi vật khắp nơi, khắp chốn!

Ðấng giữ lòng trung cho đến đời đời,

7 Ðấng giải oan cho người bị áp bức lầm than,

Ðấng cho kẻ đói được có bánh ăn,

Yavê giải phóng kẻ trong ngục tù,

8 Yavê mở mắt người mù,

Yavê nâng đỡ những người ngã quỵ,

Yavê mến người có đức,

9 Yavê gìn giữ kẻ tha phương,

mồ côi góa bụa, Người cho hồi tỉnh,

còn đường kẻ dữ, Người cho vạy vò.

10 Yavê làm vua muôn thuở,

Thần của ngươi cho đến đời đời, hỡi Sion.

 

Thánh Vịnh 147 (146-147)

Ca ngợi Ðấng toàn năng

Alleluia!

1 Hãy ngợi khen Yavê vì Người tốt lành,

hãy đàn ca Thần của chúng ta, vì Người nhân hậu,

xứng đáng thay, việc ngợi khen Người.

2 Yavê tái tạo Yêrusalem,

Người thâu họp bọn lưu đồ của Israel.

3 Ðấng chữa lành kẻ lòng tan vỡ

và ràng rịt vết thương của họ.

4 Người kiểm số các vì sao sáng,

Người gọi đúng tên hết thảy từng ngôi.

5 Lớn lao thay Chúa chúng ta!

Người rất mạnh sức và thông minh vô lường.

6 Yavê cho khó nghèo hồi tỉnh,

ác nhân, Người hạ xuống đất đen.

7 Hãy xướng ca cám tạ Yavê,

hãy trổ tiếng cầm ca chúc Thần linh ta thờ,

8 Ðấng cho mây rợp màn trời,

Ðấng dọn mưa cho mặt đất.

Ðấng cho cỏ mọc khắp đồi non,

cùng các thứ rau loài người dùng đến.

9 Ðấng ban của ăn cho thú vật,

cho quạ non chim chíp kêu lên.

10 Nơi sức vóc ngựa, Người không vui khoái,

bắp chân vạm vỡ, Người không yêu chuộng.

11 Yavê yêu chuộng những ai kính sợ Người.

những ai trông cậy ân nghĩa của Người.

12 Yêrusalem hỡi, hãy tán tụng Yavê,

hãy ngợi khen Thần của ngươi, hỡi Sion!

13 Vì Người đã cài chắc then cổng thành ngươi,

con cái nơi ngươi, Người đã chúc lành.

14 Ðấng cho bình an khắp bờ cõi ngươi,

Ðấng cho no đầy cao chí lúa miến.

15 Ðấng gửi sấm ngôn của Người xuống đất,

hỏa tốc lời Người chạy đi.

16 Ðấng cho sa tuyết như len,

Ðấng gieo sương giá như là rắc tro.

17 Ðấng gieo nước đá như thể từng thoi,

trước cơn giá buốt nước đông lại.

18 Người sai lời Người làm chúng tan ra,

Người thổi hơi Người và nước chảy veo veo.

19 Người đi loan báo lời Người cho Yacob,

luật điều, phán quyết của Người cho Israel.

20 Không phải mọi dân được Người làm cho như thế,

Người không [tỏ] cho họ biết phán quyết của Người.

 

Thánh Vịnh 148

Vũ trụ ngợi khen Thiên Chúa

1 Alleluia!

Hãy ngợi khen Yavê từ các tầng trời,

hãy ngợi khen Người trên chốn cao xanh.

2 Hãy ngợi khen Người, các thần sứ của Người hết thảy,

hãy ngợi khen Người, hết thảy các cơ binh của Người.

3 Hãy ngợi khen Người, hỡi mặt trời, mặt trăng,

hãy ngợi khen Người, hỡi mọi vì sao sáng.

4 Hãy ngợi khen Người, hỡi trời cao trùng điệp,

cùng với nước trên đỉnh vòm trời.

5 Chúng hãy ngợi khen Danh Ðức Yavê,

vì Người phán truyền và chúng được dựng nên.

6 Người đặt chúng đứng vững muôn đời muôn kiếp,

Người đã ra luật, luật chẳng hề qua.

7 Hãy ngợi khen Yavê từ cõi đất,

thuồng luồng và hết các vực thẳm.

8 Lửa và mưa đá, tuyết với sương mù,

cuồng phong bão táp răm rắp vâng lời Người.

9 Núi non và gò nỗng hết thảy,

cây cỏ và bá hương các loại.

10 Mãnh thú và súc vật hết thảy,

côn trùng và chim loài có cánh.

11 Vua chúa trần gian và hết thảy muôn dân,

tướng lĩnh hết thảy các ngự sử gian trần

12 Trai tráng và cả nữ trinh,

lão bô với các nhi đồng!

13 Chúng hãy ngợi khen Danh Ðức Yavê,

vì chỉ có Danh Người cao siêu tuyệt đỉnh,

oai phong của Người lướt cả đất trời!

14 Người giương cao uy của dân Người:

Lời ca ngợi, việc của những ai thành tín với Người,

của con cái Israel, dân được lại gần Người.

 

Thánh Vịnh 149

Ca khúc khởi hoàn

1 Alleluia!

Hãy hát mừng Yavê một bài ca mới,

lời ngợi khen Người trong đại hội những người thành tín!

2 Israel hãy vui lên nơi Ðấng tác thành ra nó,

con cái Sion hãy hân hoan trước Vua chúng thờ!

3 Chúng hãy nhảy múa ca ngợi Danh Người,

trống đàn vang dậy, chúng hãy đàn ca cho Người!

4 Vì Yavê yêu dấu dân Người,

nghèo hèn, Người đã cho huy hoàng thắng trận.

5 Người thành tín hãy nhảy mừng rạng rỡ vinh quang,

an vị rồi, chúng hãy reo vui.

6 Từ họng chúng vang ra lời tán dương Thần,

nơi tay chúng kiếm đao hai lưỡi,

7 để thi hành oán phạt các dân,

quyền xử tội trên các giống nòi,

8 để trói vua chúa các nước bằng xiềng,

và khanh tướng của chúng bằng xích sắt,

9 để tuyên về chúng án đã viết!

Ðó là uy phong của những ai thành tín với Người.

 

Thánh Vịnh 150

Chúc vinh kết thúc

1 Alleluia!

Hãy ngợi khen nơi thánh điện thờ Người,

hãy ngợi khen Người nơi vòm trời oai linh!

2 Hãy ngợi khen Người vì các huân công của Người,

hãy ngợi khen Người vì Người lớn lao vô lượng!

3 Hãy ngợi khen Người với tiếng loa vang dậy!

hãy ngợi khen Người với tiếng sắt tiếng cầm!

4 Hãy ngợi khen Người với trống dồn cùng vũ điệu,

hãy ngợi khen Người với tiếng đàn tiếng địch!

5 Hãy ngợi khen Người với tiếng chiêng vang!

Hãy ngợi khen Người với phèng la dậy đất!

6 Mọi làn hơi thở hãy ngợi khen Ðức Yavê!

Alleluia!

©2019-
Developed by Augustine Francis