Old Testament

Sách Aica
(Ai)


01, 02, 03, 04, 05

Chương 01

Ai Ca I

1 Sao! Nó ngồi trơ vơ, cái thành đông dân! - - Aleph.

Xưa là bà lớn giữa chư bang, nay nên như người góa bụa.

Xưa là nữ chúa giữa bao tỉnh hạt, nay phải è thân dưới đòn khổ dịch.

2 Thâu đêm khóc than sướt mướt, và lệ nhỏ đầm đìa gò má. - - Bet.

Không một người an ủi, giữa cả lũ tình nhân.

Bạn bè cả đám đều phản bội, hóa nên kẻ thù.

3 Yuđa đày ải lầm than, làm thân tôi mọi dãi dầu. - - Gimel.

Nó phải ngồi giữa các bang, không tìm ra nơi an nghỉ.

Mọi kẻ lùng bắt đã đuổi kịp nó, giữa bước quẫn cùng.

4 Mọi nẻo về Sion trong cảnh tang ma, - - Ðalet.

bỏi không người vãng lai lễ tiết. Các cổng thành đều hóa hoang vu,

hàng tư tế rên xiết. Trinh nữ thì bị hành hung,

còn Sion ngậm đắng nuốt cay.

5 Quân nghịch của nó cầm đầu, kẻ thù nhàn hạ. - - Hê.

Bởi chưng Yavê đã hành hạ nó, vì bao tội nghịch.

Lũ con thơ của nó phải ra đi đây, đàng trước nghịch quân.

6 Nữ tử Sion đã bị tước hết mọi nét uy phong. - - Vav.

Trưởng lão của nó như những hươi nai, không tìm được cỏ.

Ðuối sức, chúng phải ra đi, trước người săn đuổi. - - Zain.

7 Yêrusalem nhớ đến những ngày lầm than phiêu bạt,

tất cả kho tàng của nó, có được từ thuở xa xưa,

trong khi dân lăn lóc dưới bàn tay kẻ nghịch,

còn nó, không ai đáp lời kêu cứu. Quân nghịch thấy nó,

chúng rộ cười, vì nó khánh tận.

8 Yêrusalem dầm dề tội lỗi, nó đã thành đồ nhơ bẩn. - - Khet.

Mọi kẻ kính nể đem lòng khinh rẻ, bởi nhìn thấy nó lõa lồ.

Còn nó, nó những rên xiết, mà ngoảnh mặt đi.

9 Tà áo nó, nhơ uế nhuốm đầy, hậu vận của nó, nó không nhớ đến. - - Tet.

Nó đà sa đọa một cách gớm ghê, không người an ủi,

"Lạy Yavê, xin nhìn đến nỗi khổ tôi, vì kẻ thù hống hách".

10 Kẻ nghịch giương tay vơ lấy hết châu báu của nó: - - Yođ.

Trong khi nó thấy dân ngoại nghênh ngang đi vào thánh điện,

những kẻ Người đã phán truyền:

Chúng không được vào đại hội của Người.

11 Toàn dân của nó rên xiết đi kiếm bánh ăn. - - Kaph.

Chúng thí kho báu: Vì một miếng ăn để mong độ trì sinh mạng.

"Lạy Yavê xin đoái trông đến, tôi bị khinh rẻ dường nào".

12 Vô can sao được, hỡi những khách qua đường, - - Lameđ.

hãy trông xem: Có đớn đau nào như cái đớn đau hành hạ thân tôi!

Mà Yavê đã đánh phạt tôi vào ngày cơn giận hỏa hào.

13 Từ trên, Người đã phóng lửa vào xương cốt tôi, - - Mem.

Người đã chà đạp. Người giăng lưới dưới chân, làm tôi lộn nhào.

Người đã để tôi nên cô quạnh, suốt ngày ốm đau.

14 Ách tội đè nặng, do tay Người kết lại. - - Nun.

Tội vạ ấy đặt lên cổ tôi, làm sức t6i kiệt quệ.

Ðức Chúa nộp tôi trong tay những kẻ tôi không thể đương đầu.

15 Ðức Chúa đã khinh bỏ cả hàng hào kiệt trong tôi. - - Samek.

Người triệu tập trên tôi đoàn hội để bẻ gãy đinh tráng tôi đi.

Ðức Chúa chà đạp như thể trong bồn, trinh nữ, nữ tử Yuđa.

16 Chính vì thế tôi khóc, mắt tôi (mắt tôi) nước mắt tuôn rơi, - - Ain.

vì người an ủi, tôi trông nhờ để được hoàn sinh đã xa vời.

Con cái tôi phiêu bạt xơ xác vì kẻ thù thắng thế"

17 Sion đưa tay ra nhưng không người an ủi. - - Phê.

Yavê đã triệu lại trên Yacob kẻ nghịch tư bề.

Giữa chúng, Yêrusalem đã nên như đồ nhơ nhuốc.

18 "Yavê Người thật chí công, - - Xađê.

tôi đã ngỗ nghịch chống lại miệng Người.

Các dân nghe đây, hãy coi nỗi đau đớn tôi chịu.

Trinh nữ và trai tráng của tôi, chúng đã lũ luợt đi đày.

19 Tôi kêu với các tình lang: Chúng đều lật lọng! - - Qoph.

Tư tế và hàng kỳ mục của tôi hấp hối trong thành,

trong khi tìm lấy miếng ăn, hầu độ trì sinh mạng.

20 Lạy Yavê, xin khấng nhìn xem tôi cùng quẫn chừng nào, - - Resh.

ruột gan sôi bỏng. Lòng tôi quặn lại trong tôi,

bởi tôi đã liều thân ngỗ nghịch. Bên ngoài gươm diệt hết con,

bên trong như cơn chết.

21 Xin khấng nghe: Tôi những rên xiết, không người ủi an. - - Shin.

Mọi kẻ thù nghe tôi mắc họa, chúng vui mừng bởi Người làm thế.

Xin cho nó đến. Ngày Người đã phán, cho chúng nên giống như tôi.

22 Sự dữ chúng làm hãy đến trước Người tất cả, - - Tav.

xin xử với chúng như Người đã xử với tôi,

vì mọi tội nghịch của tôi.

Những điều tôi rên xiết nhiều biết bao; và lòng tôi ốm liệt".

Chương 02

Ai Ca II

1 Sao! Ðức Chúa để cơn giận đằng đằng rợp trên nữ tử Sion! - - Aleph.

Người đã xô tự trời xuống đất vinh quang của Israel.

Người đã không nhớ đến bệ chân Người vào ngày nổi giận.

2 Ðức Chúa đã cho ngốn mất không thương tất cả nội cỏ Yacob. - - Bet.

Trong cơn giận dữ, Người đã lật đổ các thành trì nữ tử Yuđa.

Người đã san bằng, xử như đồ tục cả quốc gia lẫn hàng trưởng lão.

3 Bừng bừng nóng giận, Người đã bẻ gãy các sừng của Israel. - - Gimel.

Người đã khoanh tay mặc kệ khi kẻ thù tiến đánh.

Như lửa hỏa hào, Người đã bừng bừng trên Yacob.

Người đã thiêu cháy xung quanh.

4 Người đã giương cung như một kẻ thù, tay phải giơ cao. - - Ðalet.

Như một kẻ địch,

người tru diệt hết những gì là báu vật trước con ngươi.

Trên nhà tạm nữ tử Sion, Người trút nóng giận như trận hỏa tai.

5 Ðức Chúa đã nên như một kẻ thù, - - Hê.

Người cho ngốn mất Israel.

Người cho ngốn mất Israel.

Người cho ngốn mất lâu đài của nó, phá hủy thành trì.

Nơi nữ tử Yuđa, Người đã gia tăng than vãn với khóc than.

6 Người đã mạnh tay làm cho giậu đổ vườn hoang, - - Vav.

hủy chốn tao phùng.

Ở Sion Yavê đã làm quên bẵng lễ tiết với ngày hưu.

Trong cơn uất nộ Người đã bố thí bỏ cả vua lẫn tư tế.

7 Người đã bỏ tế đàn của Người, rẻ rúng thánh điện. - - Zain.

Người đã nộp trong tay kẻ thù, báu vật nơi các kho tàng.

Trong Nhà Yavê, chúng rống lên, như ngày lễ tiết.

8 Yavê đã mưu tính phá hủy tường thành nữ tử Sion. - - Khet.

Người đã căng dây, không rút lại tay Người trước khi ngốn hết.

Thành trong lũy ngoài, Người gieo tang tóc,

cùng một trật, chúng đều tang thương.

9 Cổng sụp dưới đất, then cổng, Người hủy, Người đã đập tan. - - Tet.

Vua cùng trưởng lão của nó ở giữa tha bang, không còn Luật lệ.

Ngay các tiên tri cũng chẳng tìm ra thị kiến bỡi Yavê.

10 Họ ngồi phệt dưới đất lặng câm, hàng kỳ mục nữ tử Sion. - - Yođ.

Họ tung tro bụi lên đầu, lưng thắt bao bị.

Họ đập đầu xuống đất, các trinh nữ Yêrusalem.

11 Mắt tôi hòa với lệ, ruột gan sôi bỏng. - - Kaph.

Mật gan trào ra trên đất, vì cảnh con gái dân tôi bị nghiền nát,

vì lũ trẻ thơ, con đỏ nằm xỉu nơi các phố phường kinh đô.

12 Chúng kêu với mẹ: "Lúa rượu ở đâu?" - - Lameđ.

trong khi chúng ngất xỉu,

như những thây ma nơi đường phố trong thành,

trong khi chúng tắt thở trên lòng mẹ chúng.

13 Làm sao ta ủy lạo ngươi? - - Mem.

Sánh ngươi với gì, nữ tử Yêrusalem hỡi?

Với ngươi, lấy gì so đọ hầu an ủi ngươi,

hỡi trinh nữ con gái Sion?

Vì sự sụp đổ của ngươi bao la như biển, ai tài chạy chữa?

14 Các tiên tri của ngươi thấy cho ngươi - - Nun.

những điều hư không bôi bác.

Chúng đã không vạch tội ngươi ra, hầu mong đổi vận cho ngươi.

Cho ngươi, chúng chỉ thấy những lời sấm hư không phỉnh gạt.

15 Chúng vỗ tay trên ngươi, tất cả những kẻ qua đàng. - - Samek.

Chúng huýt gió, chúng lắc đầu, trên nữ tử Yêrusalem.

"Phải chăng đó là thành người ta thường nói:

Tuyệt diệu mỹ miều mối hoan lạc cho toàn cõi đất?"

16 Chúng chõ mồn trên ngươi, tất cả các kẻ thù của ngươi. - - Phê.

Chúng huýt gió, chúng nghiến răng, chúng nói: "Ta đã ngốn rồi!

A! Ngày ta trông đợi, ta đã gặp, ta đã thấy!"

17 Yavê đã làm điều Người đã định, - - Ain.

lời Người phán, người đã liễu thành,

điều Người đã truyền từ ngày xa xưa;

Người đã lật đổ không thương.

Người đã cho kẻ thù phỉ chí trên ngươi,

Người đã giương cao sừng quân địch.

18 Hãy kêu lên Ðức Chúa, hãy than khóc, nữ tử Sion! - - Xađê.

Hãy tuôn nước mắt dòng dòng cả ngày lẫn đêm.

Ðừng kiếm cách làm lợi cho mình, đừng để tròng mắt nghỉ ngơi.

19 Hãy chỗi dậy, la vang đêm tối, đầu các canh khuya. - - Qoph.

Hãy trút nỗi lòng như nước, trước nhan Ðức Chúa.

Hãy giơ tay lên với Người, vì mạng sống đàn con dại của ngươi

(chúng đói ngất xỉu nơi các đầu đường phố xá).

20 "Lạy Yavê xin đoái trông đến, - - Resh.

Người đã xử như vầy với ai?

Làm sao mẹ mà ăn được quả mình cưu mang,

những đứa con thơ vẫn còn ẵm bế?

Làm sao tư tế và các tiên tri lại bị giết

chính nơi thánh điện thờ Ðức Chúa?

21 Nơi phố xá trẻ con, người già nằm phơi trên đất, - - Shin.

trinh nữ và các tráng niên ngã gục, gươm đâm.

Người đã giết, đã hạ sát không thương, vào ngày giận dữ.

22 Người đã triệu tập như ngày lễ tiết, - - Tav.

nhưng kinh hoàng tứ phía trên tôi.

Vào ngày Yavê giận dữ, không mống nào thoát trận, sống sót.

Những đứa con, tôi đã bồng bế nuôi lớn, kẻ thù tôi đã giết sạch".

Chương 03

Ai Ca III

1 Tôi, một người đã từng nếm cảnh lầm than - - Aleph.

dưới roi phẫn nộ của Người.

2 Người đã xua đi và dẫn tôi vào trong tăm tối,

chứ không phải vào ánh sáng.

3 Trên mỗi mình tôi, Người cứ trở tay suốt ngày.

4 Thịt da tôi, Người để hao mòn, xương tôi, Người đã nghiền tán. - - Bet.

5 Người đã xây quanh tôi, đã vây hãm tôi cả đầu lẫn đuôi.

6 Người đã nhốt tôi ngồi trong tăm tối, như những kẻ đã chết bao đời.

7 Người đã xây tường, ví tôi, không để cho ra, - - Gimel.

Người làm xiềng tôi nặng trĩu.

8 Tôi kêu, tôi la, Người đã bịt lối trước lời tôi cầu nguyện.

9 Người đã xây tường đá tảng chận đường lối tôi,

nẻo tôi đi, Người đã bẻ khúc vạy vò.

10 Với tôi, Người là gấu dữ núp rình, là sư tử bụi rậm. - - Ðalet.

11 Ðường lối tôi, Người cho lạc hướng,

Người đã đánh què, làm tôi bại liệt.

12 Người đã trương cung, Người đã nhắm tôi, như bia tên bắn.

13 Dốc cả bao tên, Người bắn vào tạng phủ tôi. - - Hê.

14 Tôi nên trò cười cho toàn dân,

nên lời ca nhạo của chúng suốt ngày.

15 Người đãi tôi no ứ đắng cay, Người cho tôi nốc say khổ ngải.

16 Người đã cho răng tôi cắn sỏi, - - Vav.

trong tro bụi, Người đã vùi tôi.

17 Mạng tôi bị xua khỏi bình an, tôi đã quên đi hạnh phúc.

18 Và tôi nói: Thế là mất rồi chỗ tựa, và hy vọng tôi nơi Ðức Yavê.

19 Xin nhớ đến thân tôi lầm than phiêu bạt, - - Zain.

nhưng là khổ ngải đắng cay!

20 Mạng tôi những nhớ cùng thương, mà ủ rũ ụp xuống trên tôi.

21 Ðiều này, lòng với lòng, tôi nhắc nhở,

bởi thế mà tôi hằng cậy trông!

22 Quả ơn nghĩa Yavê không hết, - - Khet.

lòng xót thương của Người không cạn,

23 sáng láng lại mới thêm luôn. Lớn thay tín nghĩa của Người!

24 "Mạng tôi nói: Phần của tôi chính Ðức Yavê,

nên tôi trông cậy vào Người".

25 Tốt lành thay với ai trông ở nơi Người - - Tet.

với mạng tìm kiếm Người.

26 Tốt phúc là nín lặng cậy trông vào việc giải cứu của Yavê.

27 Tốt phúc cho người đã mang lấy ách trong lúc thiếu thời.

28 Nó hãy ngồi riêng nín lặng, khi Người tra ách vào cho. - - Yođ.

29 Nó hãy dập miệng trong bụi đất! Có lẽ còn có hy vọng.

30 Nó hãy giơ má cho kẻ đánh mình, đành no ô nhục.

31 Vì chưng Ðức Chúa sẽ không rẫy bỏ phàm nhân đời đời: - - Kaph.

32 Cho đi Người có hành hạ, Người sẽ chạnh thương,

chiếu theo lòng nhân hải hà.

33 Vì Người không đang tâm đày dọa, và hành hạ con cái loài người.

34 Chà đạp dưới chân các tù nhân một xứ, - - Lameđ.

35 làm xiêu vẹo lẽ phải một người, trước nhan Thượng Ðế,

36 uốn lắt léo vụ kiện người ta,

(các sự ấy), họa chăng Ðức Chúa đã không nhìn thấy? - - Mem.

37 Ai nói ra khiến cho thành sự mà Ðức Chúa đã lại không truyền?

38 Lại không phải do miệng Thượng Ðế mà ra cả họa lẫn phúc?

39 Người phàm sống đó sao dám kêu ca, con người lì trong sự tội!

40 Ta hãy lục soát, dọ xem đường lối của ta, - - Nun.

và ta hãy trở lại với Yavê.

41 Ta hãy nâng lòng chứ không phải bàn tay, với Thiên Chúa trên trời!

42 Chúng tôi đã phạm tội, đã phản nghịch!

Phần Người, Người đã không tha!

43 Cơn thịnh nộ đã bao trùm Người, - - Samek.

Người đã đuổi theo chúng tôi mà giết, không thương.

44 Người đã khuất mình trong mây, không để lời cầu xuyên qua.

45 Người đã để chúng tôi thành rác rưới, phế vật ở giữa các dân.

46 Chúng banh mồm trên chúng tôi, hết thảy quân thù chúng tôi. - - Phê.

47 Thuộc phần chúng tôi: Hãi hùng, hầm hố cùng với tan hoang, táng bại.

48 Mắt tôi nhỏ lệ ròng ròng vì sự táng bại con gái dân tôi!

49 Mắt tôi tuôn chảy không ngừng, không lúc nào ngơi, - - Ain.

50 cho đến khi nào Yavê từ trời, ghé trông đoái nhìn.

51 Mắt tôi làm khổ mạng tôi, vì phận đàn bà con gái thành tôi hết thảy.

52 Tôi như con chim, chúng săn, chúng lùng, - - Xađê.

những kẻ thù tôi vô cớ.

53 Chúng xô mạng tôi nhào hố, chúng đã liệng đá trên tôi.

54 Nước đã lút cả đầu; tôi nói: "Tôi chết mất!"

55 Tôi đã kêu khấn Danh Người, lạy Yavê, từ đáy hố sâu. - - Qoph.

56 Người đã nghe tiếng tôi, xin đừng giả điếc làm ngơ

trước lời tôi van xin, kêu cứu.

57 Người đã lại gần, ngày tôi kêu khấn, Người đã phán: "Ðừng sợ!"

58 Lạy Chúa, vụ kiện tôi, Người đã bầu chữa, - - Resh.

người đã chuộc mạng sống tôi.

59 Người đã thấy, lạy Yavê, nỗi oan tôi chịu,

Người đã xử an cho tôi.

60 Người đã thấy cả mối oán thù của chúng,

chúng những mưu mô ám hại tôi.

61 Người đã nghe chúng nhục mạ, lạy Yavê, - - Shin.

chúng những mưu mô ám hại tôi,

62 những lời kẻ nghịch tôi lẩm bẩm trên tôi suốt ngày.

63 Chúng ngồi, chúng đứng, xin Người ngó xem:

Với chúng, tôi là đề tài hát diễu.

64 Người sẽ hoàn lại cho chúng, lạy Yavê, - - Tav.

công lênh xứng với việc vàn tay chúng.

65 Người sẽ để lòng chúng lì lợm, án của Người lưu lại trên chúng.

66 Thịnh nộ của Người tróc nã chúng, tiêu diệt chúng

khỏi dưới bầu trời của Người, lạy Yavê.

Chương 04

Ai Ca IV

1 Sao! Vàng hóa đen sì, vàng ròng đổi thay! - - Aleph.

Ðá thánh vung vãi khắp đầu đường xó chợ!

2 Con cái Sion sang quí, trị giá vàng ròng, - - Bet.

sao! Chúng bị kể như những hũ sành, đồ tay thợ gốm!

3 Sói cái còn vạch vú cho đàn con bú, - - Gimel.

đàn bà con gái dân tôi hung ác, như đà điểu sa mạc.

4 Vì khát, lưỡi hài nhu dính liền cửa họng. - - Ðalet.

Trẻ thơ xin bánh, mà chẳng ai đưa.

5 Những kẻ từng ăn cao lương mĩ vị, nay đói lả ngoài đường phố. - - Hê.

Những người nuôi trong gấm vóc, rày ôm lấy đống phân nhơ.

6 Tội của con gái dân tôi lớn hơn lỗi của Sôđôm, - - Vav.

cái thành sụp đổ trong chốc lát, không tay nào động đến.

7 Ðạo nhân trong tuyết băng thanh, sữa nhường màu trắng, - - Zain.

phong cốt, san hô thua thắm, hình hài bích ngọc.

8 Bây giờ nước da đen đủi quá mồ hóng, - - Khet.

ngoài đường không thể nào nhận ra,

da dính xương khô đét khác nào thanh củi.

9 Những kẻ chết vì gươm đâm

còn phúc hơn những người chết đói, - - Tet.

thân tàn ma dại, vì thiếu hoa màu ruộng đất.

10 Những thiếu phụ dào dạt tình thương nay dám luộc con, - - Yôđ.

làm lương tẩm bổ trong sự táng bại con gái dân tôi.

11 Yavê trút hết nóng giận, đổ xuống hỏa hào thịnh nộ. - - Kaph.

Người đã đốt cháy Sion; lửa đã thiêu rụi nền móng nó.

12 Họ không sao tin được, các vua trên đất và mọi người - - Lameđ.

ở trần gian, là sao cổng thành Yêrusalem đã bị địch thù xâm nhập.

13 Ấy vì lỗi của tiên tri, tội các tư tế của nó: - - Mem.

Bên trong thành, chúng đổ máu người lành đức nghĩa.

14 Mù lòa, chúng vất vưởng, phố phường vấy nhơ đầy máu, - - Nun.

khiến áo xống của chúng, không ai có thể rờ đến.

15 "Xê ra! Nhơ uế!" trước mặt chúng, người ta giật giọng: - - Samek.

"Xê! Xê ra, đừng đụng tới!"

Chúng rong xa vất vưởng; trong tha bang, thiên hạ nói:

"Ðừng để cho chúng làm khách trọ!"

16 Nhan Yavê đánh bạt chúng đi, - - Phê.

Người không còn đoái hoài nhìn đến.

Tư tế, họ không nể mặt, già lão cũng chẳng được thương.

17 Mắt chúng tôi mòn mỏi, hão huyền những trông cứu viện. - - Ain.

Chúng tôi mỏi mòn ngóng đợi một nước không tài giải cứu.

18 Họ rình từng bước chúng tôi, ngoài phố hết phương đi lại. - - Xađê.

Ðã gần tận số! Ngày đời chúng tôi đã mãn! Tận số đến nơi!

19 Chúng nhanh hơn phượng hoàng bầu trời, - - Qoph.

những kẻ đuổi bắt chúng tôi.

Trên núi đồi, chúng truy kích; nơi sa mạc, chúng núp rình.

20 Khí thở của chúng tôi, Vị Yavê xức dầu sa hố chúng đào, - - Resh.

về ngài, chúng tôi những nói:

"Núp bóng ngài, chúng ta sẽ sống giữa các bang".

21 hãy hớn hở mừng vui, nữ tử Eđom hỡi, dân cư đất Us. - - Shin.

Cả ngươi nữa, chén sẽ đến tay, ngươi sẽ cởi  truồng.

22 Xong rồi, tội vạ của ngươi, nữ tử Sion hỡi, - - Tav.

Người sẽ không còn đày ải ngươi, Người sẽ hỏi tội ngươi,

nữ tử Eđom hỡi, Người sẽ phơi trần tội của ngươi ra!

Chương 05

Ai Ca V

1 Xin Người nhớ đến, lạy Yavê, cơ sự của chúng tôi.

Hổ nhục của chúng tôi, xin Người đoái trông nhìn đến.

2 Cơ nghiệp chúng tôi đã chuyển cho người xa lạ,

nhà cửa chúng tôi cho khách tha bang.

3 Chúng tôi đã nên mồ côi, không cha, mẹ chúng tôi đã thành góa bụa.

4 Nước nôi của mình, chúng tôi phải xuất bạc mua uống;

củi của chúng tôi, chúng tôi có trả giá mới được đem về.

5 Ách trên cổ, chúng tôi bị lùa đuổi tới.

Chúng tôi dãi dầu, không chút nghỉ ngơi.

6 Chúng tôi chìa tay cho Aicập, Assur, để được no miếng bánh.

7 Cha ông chúng tôi lỗi lầm, họ không còn nữa;

tội vạ của họ, chúng tôi chuốc lấy.

8 Lũ tôi mọi thống trị chúng tôi, không người giựt thoát tay chúng.

9 Hầu vong mạng, chúng tôi mới tải được bánh ăn về,

xông pha gươm giáo trong sa mạc.

10 Da chúng tôi như bị thiêu hỏa lò, vì cơn đói đốt ruột.

11 Tại Sion, chúng hãm hiếp đàn bà,

trong các thành Yuđa gái tân (bị nhục).

12 Tay chúng treo họng hàng trưởng lão.

Mặt già lão cũng chẳng được kính vì.

13 Trai tráng è thân xay cối, trẻ con lảo đảo dưới bó củi.

14 Bô lão bỏ việc cổng thành; trai tráng bãi việc cầm ca.

15 Lòng chúng tôi không còn hoan lạc. Nhảy múa đã đổi thành tang ma.

16 Triều thiên trên đầu đã rơi xuống.

Khốn cho chúng tôi, bởi đã phạm tội!

17 Này vì sao mà lòng chúng tôi đã phải đớn đau,

vì lẽ nào mắt chúng tôi sầm tối?

18 Vì núi Sion đã phải tan hoang, tới lui trên đó, chỉ còn chó sói.

19 Còn Người, lạy Yavê, Người sẽ vĩnh thời hiển ngự.

Ngai của Người còn mãi đời đời.

20 Làm sao Người hằng quên chúng tôi?

người bỏ chúng tôi đằng đẳng bao ngày?

21 Xin quay chúng tôi trở lại với Người, lạy Yavê,

và chúng tôi sẽ trở lại.

Xin đổi mới ngày đời chúng tôi như thuở xa xưa.

22 Phải chăng Người đã bỏ luôn chúng tôi?

Người đã giận chúng tôi không cùng?

©2019-
Developed by Augustine Francis